Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Áp Dụng Phật Pháp Vào Đời Sống

12 Tháng Hai 201508:40(Xem: 7561)
Áp Dụng Phật Pháp Vào Đời Sống
ÁP DỤNG PHẬT PHÁP VÀO ĐỜI SỐNG

HT. Thích Nhật Quang


Ap Dung Phat Phap vao Doi SongĐây là lần đầu tiên chúng tôi được thăm viếng và làm quen quý Phật tử. Qua lời giới thiệu của Thầy chúng tôi, sáng nay chúng tôi được phép thay nhọc cho Thầy nói chuyện Phật pháp tại Thiền tự Vạn An cùng quý Phật tử.

Lâu nay ở quê nhà, có một số Phật tử phát tâm tu học và đủ điều kiện thực hành công phu tu tập. Qua tiếp xúc, chúng tôi biết nỗi ưu tư lớn của quí vị là “Làm sao áp dụng được Phật pháp một cách chín chắn vào đời sống của mình?”.

Phật tử cũng nhận biết rõ nếu như chỉ hiểu Phật pháp, dù hiểu nhiều, hiểu sâu sắc, nhưng thiếu phần áp dụng chúng ta cũng không thể gọi là người thâm nhận hoặc hưởng được giá trị thiết thực của Phật pháp.

Quả thật như thế, dù chúng tađể tâm nghiên cứu học hỏi các phương pháp tu hành thật nhiều, nhưng không có phần hành trì, không hạ thủ công phu, thì cái hiểu của chúng ta cũng chỉ là hiểu, là kiến giải thôi. Vì vậy quí Phật tử nên quan tâm đến phần thực hành nhiều hơn. Công phucông phu của chính mình, chứ không phải của ai hết. Chúng ta cũng không thể đợi chờ, ỷ lại vào một vị thầy nào. Ngay bây giờ, điều thiết yếu nhất là mỗi vị phải áp dụng tu hành. Người xưa dạy: Phật pháp không nhiều, người bền lâu khó có. Học đạo như tâm ban đầu thì thành đạo hẳn có thừa. Trước sau không hề đổi, mới thật là người học Phật.

Qua lời dạy trên chúng ta thấy rõ, hiểu sâu hay nghiên cứu nhiều, mà không quan tâm đến phần hành, phần tu thì không mong có ngày thành tựu. Phật pháp không nhiều, quí ở giữ tâm ban đầu, thực hành chuyên nhất, mới thật là người để tâm tới việc học Phật. Chúng ta nắm được chìa khóa, biết cách mở cửa, chúng ta có thể mở được cửa vào nhà. Người đủ điều kiện mở cửa vào nhà mà cứ đi loanh quanh bên ngoài, chưa chịu mở cửa vào nhà, thì vẫn chịu kiếp lang thang.

Chư Phật, Bồ-tát, các bậc Thánh hiền, những vị thiện hữu tri thức của chúng ta đều đã qua các giai đoạn thể nghiệm thật là sâu sắc, đến nơi đến chốn, do vậy các ngài được an lạc. Những gì các ngài dạy lại chúng ta đều từ sự thể nghiệm ấy. Người tu Phật không phải là triết gia, không phải thi sĩ, không phải học giả, mà là một người hành giả. Chúng ta chỉ có thể căn cứ từ nơi mình mà luận bàn, hơn là cứ tìm tòi chạy kiếm bên ngoài. Chúng ta nói tu học, nói áp dụng Phật pháp mà không trị được phiền não, không hết điên đảo lăng xăng, những mê mờ còn đọng lại trong lòng quá nhiều thì chưa thể gọi là tu Phật. Bởi vậy gặp chướng duyên tập khí tham, sân, phiền não, ganh tỵ, đố kỵ… dấy khởi lẫy lừng. Cho nên người con Phật phải quan tâm đến việc tu học của mình.

Người xưa dạy Phật pháp không có nhiều, tức là pháp Phật nói ra chung quy cũng chỉ có những điểm then chốt, chỉ mê khai ngộ giúp chúng sanh ta nhổ sạch gốc vô minh, phiền não. Những ai nhận được, hành trì đúng đắn, thể nghiệm hay sống được với thật pháp, nhất địnhan lạc. Không nhất thiết chúng ta phải hành trì hết cả loạt những kinh điển đã được học, chỉ cần hành một phần nào trong đó thôi, cũng đã có an lạc rồi. Có khi ta học nhiều, nhớ thuộc, hiểu biết, trình bày càng nhiều càng làm loạn tâm thêm. Bởi vì như thế là tăng trưởng kiến giải, mà tăng trưởng kiến giải thì không thể an định được.

Chúng ta chỉ cần hiểu những điều chính yếu và khế hợp với căn cơ của mình thì có thể ứng dụng tu được rồi. Nắm được phương thức đó, nhất định chúng ta sẽ giác ngộ, giải thoát. Người xưa dạy Phật pháp không nhiều rất hay, bởi vì nếu Phật pháp nhiều, chúng ta sẽ không hành trì hết. Ta hành trì pháp thích hợp với mình, còn những phần khác hiểu qua thôi. Ví dụ kiểm nghiệm lại bản thân mình hay nóng nảy, nhớ lời Phật dạy quán từ bi trị bệnh nóng nảy thì nhắm thẳng phương pháp đó mà hành, nhất định hành cho đến nơi đến chốn. Có thế ta mới trị được bệnh nóng nảy của mình.

Học Phật pháp là để trị bệnh. Bệnh của chúng sanh là bệnh từ nhiều đời, nên thời gian điều trị không thể mau được. Do chúng ta mê lầm nên bị cuốn theo dòng thác sanh tử. Những tật xấu, những tập khí, những tham sân phiền não đã ăn sâu gốc rễ, nếu không bền lòng tận lực thì khó mong hết nổi. Biết như thế, bây giờ chúng ta nhắm ngay bệnh của mình mà trị. Chúng tôi rất tâm đắc với lời dạy Phật pháp không có nhiều. Chỉ cần nắm phần chính, phần thực sự khế hợp với mình và quyết tâm hành trì.

Phật pháp mình hiểu là để áp dụng cho mình, trị bệnh của mình. Những huynh đệ đồng tu đồng học là những người cùng một lý tưởng, một khuynh hướng, một nhân duyên với mình. Đối với những vị này chúng ta nên hỗ trợ động viên để cùng tu cùng học. Thật ra nói cùng tu cùng học chứ thực tình việc tu học là cho chính mình, chứ không cho ai hết.

Người lâu bền khó có, là người có kiên tâm, có ý chí hành trì Phật pháp đến nơi đến chốn thật hiếm. Không phải không có, nhưng rất hiếm. Bản thân chúng ta cũng vậy, buổi sáng vui buổi chiều buồn, sáng phấn khởi, giữa trưa lại muốn bỏ cuộc, đại khái như thế. Nghĩa là chúng ta có bệnh bất nhất. Bởi bất nhất nên phần hành có nhưng quyết tâm bền chí, dũng mãnh tu tập cho đến nơi đến chốn thì rất ít người được. Người xưa phát tâm tu tập chừng nào bằng Phật mới vừa lòng, về phần này chúng ta thua người xưa nhiều.

Nghiên cứu lại lịch sử tu hành của các tổ Trúc Lâm, chúng ta thấy Sơ Tổ Trúc Lâm, là một ông vua anh hùng của dân tộc. Khi Ngài đi tu đã hành hạnh đầu đà, đạt đạo dưới rừng trúc nên gọi là Tổ Trúc Lâm. Chúng ta cứ ngỡ một người quyền uy như thế, hưởng thụ như thế, chắc không tu nổi, mà nếu có tu cũng dễ rơi vào tình trạng bất nhất của mình. Nhưng không! Ông vua Việt Nam đi tu, lên rừng trúc tu hạnh đầu đà năm sáu năm trường, ngộ đạo rồi mới ra hoằng pháp lợi sinh. Cho nên bây giờ mới có hai bài Ngài viết để lại cho chúng ta là “Cư trần lạc đạo phú” và “Đắc thú lâm tuyền thành đạo”.

Người xưa đã làm được thì ngày nay chúng ta cũng làm được. Tổ thời Trần của tu như vậy, chúng ta cũng tu được như vậy. Các Ngài tu đắc lực, giác ngộ sáng được việc của mình, hôm nay chúng ta tu cũng giác ngộ, sáng được việc của mình. Bởi vì tinh thần giác ngộ, siêu thoát đó không dành riêng cho ai. Nó là thành quả dành cho các hành giả có tâm quyết liệt, khẳng định trong công phu tu tập. Vì vậy người tu phải có ý chí, kiên tâm bền bĩ, nhất định tu thành công.

Tâm ban đầu của chúng ta nếu được gìn giữ bảo quản liên tục, thì không có khó khăn nào, trở ngại nào ngăn cản bước chân ta nổi. Tâm ban đầutâm giác ngộ, tâm cầu thành Phật. Người tu nếu phát khởi tâm đó rồi, nuôi dưỡng liên tục trong suốt quá trình tu hành, nhất định tu sẽ thành công. Quý Phật tử nên nhớ phải phấn chí phát nguyện tu hành chừng nào bằng Phật mới vừa lòng mình, không thay đổi, không vì một sự duyên gì làm trở ngại việc tu hành cả. Nếu tất cả những người con Phật phát tâm tu hành, phát tâm học đạo giữ được tâm ban đầu của mình thì số người thành Phật rất nhiều.

Chúng ta có thấy được chỗ thâm yếu, vi diệu của Phật pháp thì mới phát tâm tin kính hướng về. Tu hành là tự nguyện, chứ không phải ai bắt buộc hết. Chúng ta phát tâm tìm hiểu, đến với đạo và học đạo. Chắc chắn quí vị thấy được giá trị đặc biệt của đạo mới đến với đạo. Ở ngoài đời, nếu nói về danh vị, nhiều Phật tử đã có danh vị, nhưng rõ ràngkhông thật sự đem đến an lạc, nên quí vị mới hướng về đạo. Khi vào đạo, biết được giá trị của đạo, chúng ta mới quyết tâm hành trì. Dù công phu có những trở ngại, nhưng cảm nhạân giá trị của đạo, chúng ta quyết tâm từng bước đi lên, như thế nhất định sẽ sáng đạo.

Sáng đạo là gì? Chúng ta có thể sáng đạo được không? Được. Trước nhất nói đến tinh thần áp dụng đạo vào trong sống. Có người bảo: Đạo lý thì nói giải thoátđời sốngva chạm, phiền não, lăng xăng… Hai con đường ngược nhau, làm sao áp dụng để đạt đạo? Thưa quý vị, nghe qua thì như thế, nhưng thực sự đạo lý là để áp dụng vào đời sống. Đời sốngphiền não lăng xăng mới có chỗ cho chúng ta áp dụng đạo lý chứ. Chính cái mâu thuẫn ấy mới giúp chúng ta thành tựu được đạo lý trong cuộc đời. Người tu phải khéo, khéo áp dụng thì lợi lạc của đạo lý nằm trong tầm tay. Chúng ta có thể nắm được, đến được, sống được đạo lý đó. Và vì thế, chúng ta có thể an lạc, giải thoát.

Trước chúng ta có những bậc huynh trưởng, các ngài đã thành tựu. Ngày nay trên bước đường chúng ta đi, có bản đồ, có sự chỉ dẫn rõ ràng của những người đi trước, nhất định chúng ta cũng sẽ thành tựu nếu chịu cất bước. Song, nếu thiếu tâm bền lâu, không có ý chí thì khó mong thành tựu. Người tuy hiểu đạo nhưng không có tâm bền lâu, không có ý chí, sự hành trì một nắng mười mưa, bước tới một bước bước lùi ba bước, thì đi tới đâu. Thành ra ở đây đòi hỏi chúng ta phải có ý chí. Có ý chí làm việc gì cũng đến nơi đến chốn. Người gặp khó khăn bỏ cuộc, gặp trở duyên nản lòng sẽ không đi tới đâu.

Khi thấy được chỗ thâm diệu đặc biệt của giáo pháp, chúng ta học và yên tâm hành trì, nuôi dưỡng phát huy ý chí. Phải kiên cường, phải bền lâu, phải vững mạnh. Năm này chúng ta chưa làm được thì cuối năm hoặc đầu năm tới phải làm được. Ta không bỏ cuộc, không nản lòng, mà kiên tâm dứt khoát sẽ thực hiện được. Người có công phu hành trì rồi thì lòng sẽ rực sáng. Chúng ta khắc phục được một phiền não, trị được một cái dở của mình là bước được một bước trong công phu, trong lòng ta có niềm vui, có sự phấn khởi. Niềm vui đó sẽ là đà tiến, là cơ hội để chúng ta bước tới. Niềm vui đó lần lần sẽ tròn đầy, sáng rực trong lòng chúng ta.

Người tu theo đạo Phật nếu không vững niềm tin, không có niềm vui, sẽ không tu đến nơi đến chốn. Những niềm vui ấy không phải tìm bên ngoài, mà lưu xuất từ công phu hành trì của chúng ta. Ví dụ trước khi bắt đầu công phu, mình có bệnh nghe ai nói trái tai là hờn trong lòng. Hờn rồi tự nhiên bủn rủn, không muốn tu hành nữa, công phu cũng công phudã dượi, không có nhuệ khí, không tăng tiến được. Những loại phiền não nho nhỏ như thế len lỏi trong lòng, chúng ta không có cách đẩy lui, nó sẽ phát triển. Nó phát triển trong các sự duyên, trong đời sống, trong tiếp cận hằng ngày của chúng ta. Càng phát triển nó càng làm mình không muốn tu nữa, cuối cùng tâm Bồ-đề lui sụt và chúng ta mất hết công phu, bỏ tu luôn.

Tôi nói những tùy phiền não thôi, không phải những phiền não chính như tham, sân, si mà còn nguy hại như vậy. Nếu chúng ta không có cách trị nó, chúng sẽ phát triển. Một hôm nào đó cái buồn sẽ buồn hơn, cái hờn sẽ hờn hơn v.v... Từ đó chúng ta không còn năng lực tăng tiến trên đường đạo. Tâm cứ u mê, mờ mờ mịt mịt, buồn thì không buồn hẳn nhưng nghe phiền phiền trong lòng, dã dượi lười biếng lắm. Nếu chúng ta không quyết tâm, tùy phiền não khởi lên rất nhiều trong một ngày. Nó ở đâu mình cũng không biết nữa, nhưng cứ hiện ra một cách u u ám ám vậy. Loại này nếu không dứt khoát rất khó trị. Cho nên người không sáng suốt, không quyết tâm đối với Phật đạo khó thực hiện đến nơi đến chốn. Phải mãnh liệt lên, mình mới vui vẻ, tăng tiến được.

Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết. Thành ra người tu phải tích cực. Vì đây là tự nguyện, tự phát tâm, không ai bắt buộc, việc của mình thì mình phải làm, không đợi ai. Dù chúng tatrông chờ, cuối cùng mình cũng làm thôi, chứ người ngoài không thể làm thay được. Như bây giờ chúng ta có Thầy, giả dụ Hòa thượng là người đạt đạo, dạy chúng ta tu nhưng mình không cố thực hành theo lời Ngài dạy, cứ để ngoại cảnh len vô phá vỡ sự thanh tịnh của tâm, thì dù Hòa thượngthương xót, muốn độ bao nhiêu cũng không độ được. Thầy thành đạođệ tử không tu cũng khó thành đạo. Vì đó là việc của mình, Thầy thương là chỉ dạy cặn kẽ phương pháp tu “con phải làm như thế, phải vượt qua như thế …” Nhưng chúng ta vượt qua, chứ không phải Thầy ban cho. Vì vậy quyết tâm hay kiên tâm là để trị bệnh ỷ lại, trông cậy, đợi chờ. Sự vật chung quanh chúng ta luôn đổi thay mau chóng, chúng ta liệu xem có thể đợi chờ được hay không? Hiểu như vậy, tất cả chúng ta phải gắng gổ, khắc phục hành trì. Mỗi người chúng ta là những hành giả phải về đến nhà, hưởng được lợi lạc trong Phật pháp.

Người học đạo phải là người biết rõ, vừa có ý chí vừa biết rõ. Biết rõ cái gì? Biết rõ tâm đạo của mình, biết rõ Phật đạo mình học, biết rõ chỗ đến của sự hành trì. Biết rõ để làm gì? Để chúng ta là chủ nhân ông quyết định cho sự tăng tiến của mình. Học đạo thì tiến cũng mình mà thoái cũng mình. Cho nên người tu Phật phải có tri thức, phải kiên tâm, biết một cách chắc thật mọi việc như thế. Ở đây chúng ta phải hiểu pháp tu, phải hiểu chúng ta. Hiểu được như thế, nhận rõ như thế mới hy vọng Kiến Tánh.

Nói đến từ “kiến tánh”, có khi quý vị nghĩ “chắc điều này chỉ để cho mấy ông tổ, còn mình không kiến tánh nổi”. Không phải thế. Chúng ta tu phải là người vững tin nơi mình có sẵn tánh giác. Đã có sẵn thì việc nhận lại đâu phải quá tầm tay của mình. Người kiến tánh là người thấy được cái thật của mình. Thế thôi. Chúng ta thấy được khả năng tu hành có thể thành Phật của mình. Hoặc trái lại, mình biết bệnh một cách rõ ràng để trị liệu cho mạnh khoẻ trở lại. Chữ Tánh là gì? Tánh là không thay đổi, là chắc thật. Mình thấy được lẽ thật của các pháp, lẽ thật của chính mình, gọi là kiến tánh. Người kiến tánh là người tu hành bảo đảm, chắc chắn không lui sụt nữa. Như vậy có gì đáng sợ lắm đâu, tại sao chúng ta không dám nhận khả năng có sẵn của mình?

Có thể nói, chúng ta tu thì phải kiến tánh. Ở trên tôi nói chúng ta phải hiểu biết, phải thấy rõ. Bây giờ đã hiểu biết, đã thấy rõ thì phải kiến tánh, phải thấy được lẽ thật. Phật dạy: Chúng ta có khả năng làm Phật. Chúng ta có khả năng giác ngộ. Tất cả chúng sanh, không riêng ai hết đều có khả năng đó. Mình nắm chắc như thế, từ đó mà khởi xướng công phu. Chúng ta đến với đạo bằng cái thấy, cái biết của mình, hành đạo cũng từ cái thấy, cái biết ấy tức là cái kiến tánh của mình. Như thế công phu tu tập cũng từ kiến tánh mà sáng đạo. Cái đó mình có thể làm được, thực hiện được, đạt được ngay trong đời này.

Tu thiền không đăït nặng vấn đề tu chứng. Sở dĩ không nói là vì sợ chúng ta lầm chấp, chưa được mà nghĩ đã được. Ở đây với người tu thiền nêu lên tinh thần kiến tánh để chúng ta mạnh mẽ, chuẩn bị công phu tu hành, làm sao sáng được việc của mình. Sáng được việc của mình gọi là người sáng đạo. Người sáng đạo là người thấy được chất Phật, thấy được khả năng làm Phật của mình. Nếu quí vị đi chùa học Phật mà phát nguyện “Con đời đời làm chúng sanh” thì thôi, tu chi cho mệt! Tu mà nguyên xi như thế thì có lợi lạc gì đâu?

Chúng ta biết chất Phật lâu nay mình có sẵn, nhưng chưa có cơ hội để nhận và sống được. Bây giờ mình có thầy có bạn, có Phật pháp chỉ đường, chúng ta phải gột rửa tất cả những gì bu bám xung quanh tánh Phật đó từ lâu nay, để hằng sống được với tánh giác. Đó là việc mình có thể thực hiện được. Trong công phu hằng ngày, có khi thầy chúng ta dạy một phương pháp rất bình thường, nhưng nếu khéo hành trì, chúng ta có thể sáng được việc của mình. Ví dụ hôm trước nhớ tới việc gì quí vị lao theo, tức là bị duyên dẫn đi. Bây giờ việc đó hiện ra, quý vị nhớ tới nhưng bỏ ngay, không lao theo. Đó là nhờ có học Phật, có hiểu Phật pháp, có hành trì, có ngồi thiền, mình biết những thứ đó là vọng tưởng không thật. Do vậy dù nó có hiện ba đầu sáu tay, mình cũng bái bái, không chạy theo nó, không để cho nó kéo mình đi. Vì thế mình dửng dưng bình thường đối với tất cả. Công phu ấy nếu được hành trì liên tục, quý vị sẽ được định tuệ, sẽ là người sáng được việc của mình. Từ đó Phật đạo hiện thành.

Người tu Phật, hành trì theo lời Phật dạy thâm niên, dù không nói sáng đạo hoặc sống đạo, mà tự nhiên bên trong có được Phật chất bình an, nó sẽ biểu hiện ra ngoài. Sự biểu hiện đó cho thấy người ấy rất an lạc, rất bình thản bởi các sự duyên chung quanh. Trong đời sống chúng ta dễ bị động bởi việc này việc kia, cho nên việc tu tập thiền định rất cần thiết. Người dễ bị động là người trong tâm chưa vững hoặc chưa sáng, nên cần phải hành trì Phật pháp nhiều hơn nữa. Nếu kiểm nghiệm thấy mình chưa chủ động được các việc, bên trong chưa sáng chưa vững, thì phải sắp xếp tu tập như thế nào cho vững sáng. Tu tập ở đây không có cách nào an toàn hơn làm sao thấy rõ, biết rõ, chủ động, đừng để mắc míu bởi bất cứ thứ gì. Bị kéo lôi bị mắc míu bởi một cái gì thì sẽ mất mình. Cố gắng làm sao làm chủ được, giữ được sự tỉnh sáng của mình là điều thiết yếu của một hành giả tu thiền.

Chúng ta mỗi người đều có một thói quen sâu dày riêng, nhà Phật gọi là nghiệp. Muốn trị được những thói quen ấy, phải dùng công phu. Muốn trị được thói quen, trước nhất chúng ta phải là người bình tĩnh. Có bình tĩnh mới sáng suốt mà trị được tập nghiệp của mình. Hòa thượng thường dạy phải tỉnh, phải giác. Làm sao lúc nào mình cũng tỉnh cũng giác, nghĩa là an nhiên, bình thường khi tiếp cận tất cả sự việc. Có tỉnh giác, có sáng suốt thì đối với thói quen mình có thể trị được, có thể làm chủ được, không bị nó dẫn đi.

Thói quen là nghiệp. Như người có thói quen hút thuốc, khi hành công phu, họ tự dặn mình phải bớt hút thuốc hoặc bỏ hẳn. Trong điều kiện thuận tiện, không tiếp duyên với thuốc, họ dễ bỏ. Nhưng khi gặp duyên, gặp bạn ghiền thuốc, tự nhiên thói quenhiện ra. Cũng như là người thích nhạc, đi ngang quán nhạc tự nhiên muốn đứng lại nghe hát. Cho nên muốn trị được những tập khí cũ, chúng ta cố gắng làm chủ được mình. Trong công phu chúng ta phải cố gắng, phải phấn đấu mới làm chủ được. Người biết tu như vậy, công phu liên tục trong mọi hoàn cảnh sẽ sáng được việc của mình không khó.

Nếu có công phu, chúng ta sẽ nhận ra được chất Phật của mình, trí tuệ sẽ hiện tiền. Từ đó mọi tập khí không làm gì được chúng ta. Thật ra tập khí sâu dày lắm, tuy mình có công phu, nhưng trị được những hơi hướm đó đòi hỏi phải quyết tâm. Để cho tập khí có cơ hội dấy khởi hoặc phát triển thì công phu hành trì của chúng ta sẽ găïp trở ngại. Nhiều vị hành trì công phu nhiều năm mà thành quả không được bao nhiêu, bởi vì họ không làm chủ được những tập khí. Mỗi người có mỗi khuynh hướng nghiệp tập khác nhau, không ai giống ai cả. Ta tự biết mình có nghiệp tập gì thì nhắm thẳng cái đó mà tu.

Một khi gột rửa được tập khí rồi, chúng ta sẽ nhẹ nhàng, an lạc, giải thoát. Bấy giờ không nói thành đạo, sáng đạo nhưng chúng ta đạt được tất cả những điều đó. Người xưa có những phương thức hành trì thực tiễn, các ngài đã chỉ dạy lại cho chúng ta. Điển hình như những thiền sư thời Trần, các ngài dạy chúng ta phải nhìn lại mình, không chạy theo bên ngoài. “Phản quan tự kỷ bản phận sự, bất tùng tha đắc.” Nhìn lại mình, soát xét lại mình, không bị những thứ bên ngoài kéo lôi, việc này ai cũng có thể làm được. Chỉ là mình không gan dạ, không làm liên tục nên không thành tựu. Nếu chúng ta gan dạ cố gắng hành trì liên tục như thế, nhất định sẽ đạt được thành quả xứng đáng.

Chúng tôi mong mỏi dù trong hoàn cảnh nào, các Phật tử cũng có thể nắm vững yếu lý Phật dạy và áp dụng được. Lâu nay chúng ta bỏ quên, nên việc tu mất nhiều thời gian, chưa nếm được lợi lạc. Bây giờ chúng ta thấy rõ phương pháp tu, nhất định sẽ đến được chỗ sáng suốt, sống được với giác tánh của mình, không bị những tập khí làm trở ngại. Đời sống thanh thản, giải thoátđời sống của người con Phật. Thiền Phật giáo Việt Nam, qua kinh nghiệm của các vị tổ sư, các Ngài đã chỉ dạy lẽ thật đó.

Mong tất cả quí Phật tử lưu tâmcố gắng áp dụng những gì Phật Tổ đã chỉ dạy. Chúng ta đủ duyên hiểu và hành đến nơi đến chốn thì sẽ hưởng được những giá trị an lạc thiết thực nhất trong Phật pháp.

_____________________________

HỎI:
- Kính bạch Thầy! Con là một thiền sinh, có thắc mắc thế này: Chúng ta có cái biết thường hằng, bất sinh bất biến, nhưng khi chúng ta bị một tai nạn làm bất tỉnh, chẳng hạn như chúng ta bị chụp thuốc mê để giải phẫu, thì chẳng hiểu cái biết thường hằng đó nó đi đâuễin Thầy hoan hỷ giải thích cho. Cám ơn Thầy.

ĐÁP:

Đây là câu hỏi trúng ngay cái ưu tư của tôi. Quý vị biết, sở dĩ sức khỏe tôi yếu là vừa rồi tôi cũng mới qua lần giải phẫu, bị chụp thuốc mê. Quãng thời gian chụp thuốc mê, tôi hoàn toàn không có cảm nhận gì hết, không biết gì hết. Khi nằm trong phòng giải phẫu, bác sĩ vừa vỗ tôi một cái, ông lấy cái gì chụp lên mũi tôi, lúc đó tôi quên bẵng đi cho tới hồi nghe có người cũng vỗ mình, biểu phải mở con mắt ra, rồi kêu uống nước, chừng đó tôi mới sực tỉnh. Thời gian từ khi chụp thuốc mê cho tới hồi kêu dậy, tối thiểu cũng phải hai tiếng đồng hồ hoặc nhiều hơn nữa. Tôi nhớ lại trong kinh Phật cũng nói Bồ-tát cách ấm còn phải lo. Cách ấm tức là khi mình bỏ thân này cho tới lúc nhận được thân sau, trong quãng đó chúng ta quên hết chuyện đời trước.

Ở đây nói riêng với người tu thiền thì thế này, chủ trương của người tu thiềntrí tuệ, tỉnh táo, sáng suốt. Cho nên chủng Phật phải được phát huy để trí tuệ luôn phát sáng. Ngay khi chúng ta còn mạnh khoẻ, nếu không cố gắng nhận cho được trí tuệ chân thật không sanh không diệt của mình thì khi các căn đóng lại, ta sẽ không còn cơ hội nhận kịp nữa. Do vậy, trong trường hợp bị chụp thuốc mê là các căn tạm thời đóng lại, nên tánh biết không có chỗ hiển lộ ra ngoài. Song không có nghĩa là nó không có. Chỉ vì chúng ta chưa nhận và sống được với nó nên thân căn khép lại, ta có cảm giác mình không biết gì nữa. Đối với người đạt đạo, nếu lìa rời thân tứ đại, tánh giác hòa cùng hư không trùm khắp. Chỗ này phải thân chứng, không thể dùng suy luận mà biết được. Nó không mất, chỉ không đủ duyên thì không hiển lộ ra thôi. Điều này có thể minh chứng được, vì khi thuốc mê hết, có người lay dậy chúng ta liền biết. Nếu tánh biết không sẵn có, làm sao mình biết được? Nó là cái chủ đạo, cái sẵn có của mình, luôn hiển lộ qua sáu căn. Nếu sáu căn tạm thời dừng hoạt động hay dừng hẳn thì tánh biết ấy sẽ trở về thể không lặng của nó, khi nào đủ duyên nó sẽ phát ra.

Chúng tôi chỉ có thể tạm giải thích như vậy, nhưng thật ra điều này chúng ta phải thân chứng mới biết một cách đích thực, không thể suy nghĩ mà hiểu được. Suy nghĩ tức không đúng.


Thích Nhật Quang
(Thiền viện Thường Chiếu)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8016)
Kinh Hoa nghiêm, nói một cách đơn giản, là bộ kinh nghiên cứu về Pháp giới và cách phát khởi trí tuệ để thể nhập Pháp giới. Trong Pháp giớilý sự vô ngạisự sự vô ngại... Hồng Dương
(Xem: 8819)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
(Xem: 9330)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
(Xem: 11513)
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát... Thích Nữ Nguyệt Chiếu
(Xem: 7609)
Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt, Sài Gòn... Thích Minh Cảnh
(Xem: 12335)
Tự học tiếng Tây Tạng - Tạng Ngữ Hiện Đại - Losang Thonden, Việt dịch: Konchog Kunzang Tobgyal
(Xem: 143765)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 6982)
Với tinh thần đó, trong khi chuyển ngữ ra tiếng Việt thời nay, việc gỡ bỏ ba chữ đó là hoàn toàn hợp lẽ... Hoằng Quảng
(Xem: 11898)
Nội dung tu học Phật pháp nước ta đại bộ phận đều phát xuất từ các kinh điển Hán dịch... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 8642)
Thế giới này là một chuỗi dài nhân duyên nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 20002)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 9296)
Một bản ngã khi muốn có được cái gì từ người khác thường thích đóng vai một nhân vật nào đó để làm cho nhu cầu của nó được đáp ứng... Eckhart Tolle
(Xem: 10846)
Sắc Tức Là Không, Không Tức Là Sắc - Nguyên tác: Cư sĩ Lý Nhất Quang, HT Thích Thắng Hoan dịch Việt ngữ
(Xem: 13624)
Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 11479)
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 9408)
Ở xứ ta, sinh vật thần thoại Khẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 14494)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 7289)
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 32532)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13158)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 21035)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 39181)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 7173)
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
(Xem: 8993)
Một cơn đau đớn cực độ cũng có thể đưa đến một thể dạng giác ngộ nào đó giúp mình mở rộng tâm thức và con tim hướng vào kẻ khác.
(Xem: 6766)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
(Xem: 9793)
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
(Xem: 9499)
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
(Xem: 8064)
Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới... Nhụy Nguyên
(Xem: 11844)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 16190)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 9638)
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
(Xem: 12285)
Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý... Thụy Nguyên
(Xem: 8833)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
(Xem: 15602)
Giáo Khoa Phật Học (3 Tập) Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ, Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
(Xem: 8039)
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
(Xem: 17883)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 8687)
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
(Xem: 8341)
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”... Nguyễn Xuân Chiến
(Xem: 10563)
Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam - Do Tổng hội Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1956
(Xem: 15884)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 17542)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 7960)
Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 13071)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 8075)
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 8638)
Đạo Phậtcon đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
(Xem: 9817)
Tam Nguyệt San Hải Triều Âm - Cơ quan phát khởi nền quốc học, Phật học, và Văn hóa Việt Nam do Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTN chủ trương từ 1973 đến 1975
(Xem: 10400)
Mục đích duy nhấtcuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏi sinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phật xuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệp trí tuệ... Đoàn Ánh Loan
(Xem: 23331)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19417)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 10106)
Tuần San Đuốc Tuệ 1965 - Cơ Quan Phát huy tinh thần Phật Giáo, Khai triển văn hóa dân tộc - Miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN 1965
(Xem: 8302)
Đặc San Hoằng Pháp Dharmaduta - Cơ Quan Truyền Bá Chánh Pháp Của GHPGVNTN 1973
(Xem: 24234)
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng - Nguyên tác: Pháp sư Thích Nhất Như, Cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
(Xem: 8877)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
(Xem: 8499)
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể...
(Xem: 8040)
Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát... Quán Như
(Xem: 17801)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 9539)
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
(Xem: 8225)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
(Xem: 24408)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 24752)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant