Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tìm Hiểu Phật Tánh Theo Kinh Luận

10 Tháng Mười Hai 201510:10(Xem: 8563)
Tìm Hiểu Phật Tánh Theo Kinh Luận
TÌM HIỂU PHẬT TÁNH THEO KINH LUẬN

Nguyễn Thế Đăng

Tìm Hiểu Phật Tánh Theo Kinh Luận

Ba truyền thống Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng đều cho rằng Phật tánh hay Như Lai tạng là lần thuyết pháp sau cùng và cũng là cực điểm của kinh điển.

Ngoài những kinh của lần chuyển pháp luân thứ ba nói về Phật tánh như kinh Thắng Man, kinh Lăng Già, kinh Pháp Hoa, kinh Đại Bát Niết Bànchúng ta có nhiều kinh luận nói về Phật tánh như Luận Đại Thừa Khởi Tín, Luận Phật Tánh (của Maitreya)…

Trong bài này chúng tôi sử dụng kinh Đại Bát Niết Bàn dựa trên các bản Việt dịch, một là bản dịch của Đoàn Trung Còn và Nguyễn Tiến Minh và một bản dịch của Hòa Thượng Thích Trí Tịnh.

1. Phật tánh

Kinh Đại Bát Niết Bàn nói nhiều lần trong chương Như Lai tánh: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. “Sư tử rống gọi là lời nói quyết định: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Như Lai thường trụ không có biến đổi. Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được thành Vô thượng Bồ đề. Do nghĩa này nên trong kinh Phật nói tất cả chúng sanh nhẫn đến kẻ tạo tội ngũ nghịch, phạm tứ trọng tộinhất xiển đề đều có Phật tánh” (Chương Sư tử hống Bồ-tát).

Sự khẳng định này không chỉ là sự khẳng định tất cả chúng sanh đều sẽ đạt đến Đại Niết-bàn, mà còn khẳng định tất cả các biểu hiện của đời sống đều có mục đích để đạt đến Phật tánh Niết-bàn. Phật tánh là bản đại giao hưởng anh hùng ca hài hòa mọi kinh nghiệm sống, mọi kiếp sống, thành một vị Niết-bàn của chiến thắng tối hậu.

“Phật dạy: Y vào pháp tức là Như Lai Đại Bát Niết Bàn.Tất cả Phật pháp tức là Pháp tánh. Pháp tánh ấy tức là Như Lai. Thế nên Như Lai thường trụ bất biến. Nếu có người bảo: Như Lai vô thường, thì người đó không thấy không biết Pháp tánh” (chương Như Lai tánh, Tứ y).

“Phật tánh tức là Pháp thân Như Lai. Thân Như Lai là thân thường trụ, bất sanh bất diệt, là thân kim cương vĩnh viễn bất hoại, đây tức là Pháp thân” (chương thân Kim Cương).

Phật tánhChân Không Diệu Hữu:

“Pháp thân là Thường, Lạc, Ngã,Tịnh lìa hẳn sanh già bệnh chết, chẳng phải trắng đen, chẳng phải cao thấp, chẳng phải đây kia, chẳng phải học vô học, Phật ra đời hoặc chẳng ra đời vẫn thường trụ, chẳng động, chẳng biến đổi. Các đệ tử của Ta nghe lời này mà chẳng hiểu được ý, bèn cho rằng Như Lai nói thân Phật là pháp vô vi”.

“Ta từng nói Phật tánh có đủ sáu tính chât: Một là Thường, hai là Thật, ba là Chân, bốn là Thiện, năm là Tịnh, sáu là Có Thể Thấy. Các đệ tử của Ta nghe lời này chẳng hiểu được ý bèn cho rằng Như Lai nói Phật tánh của chúng sanh rời ngoài chúng sanh mà có”.

“Ta lại nói Phật tánh của chúng sanh như hư không. Hư không chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng phải trong ngoài, chẳng phải sắc thanh hương vị xúc, Phật tánh cũng như vậy. Các đệ tử của Ta nghe lời này chẳng hiểu được ý bèn cho rằng Như Lai nói Phật tánh của chúng sanh rời ngoài chúng sanh mà có”.

“Ta lại nói chúng sanh chính là Phật tánh, vì nếu rời chúng sanh thì chẳng được Vô thượng Bồ-đề” (chương Ca-Diếp Bồ-tát).

“Phật tánh của chúng sanh chẳng hư, chẳng hoại, chẳng bị lôi kéo, chẳng bị bắt, chẳng bị trói buộc” (chương Sư tử hống Bồ-tát).

Qua những câu kinh này, chúng ta thấy Phật tánhthường trụ, không biến đổi, trùm khắp, không bị nhiễm ô dù bị trọng tội hay biến mất bởi kẻ không tin (nhất xiển đề). Phật tánh chẳng hề rời ngoài chúng sanh, dù chúng sanh còn chưa biết nó.

Nghĩa chính yếu của Phật tánhthường trụ, như Phật, Pháp, Tăng là thường trụ (chương Kim Cương Thân). Thường trụ có nghĩa là vẫn có ở đó, bất chấp chúng tabiến đổi thế nào, bất chấp chúng tahiện hữu hay không.

Phật tánh nội tại trong ngã và pháp, nhưng siêu việt khỏi ngã và pháp. Kinh nói: “Tánh ngã và tánh Phật. Không hai không sai biệt” (chương Như Lai tánh). “Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, vôn không chỗ trụ. Dùng phương tiện khéo thì thấy được. Vì được thấy nên được Vô thượng Bồ đề (chương Quang Minh Biến Chiếu).

Phật tánh thì đồng nhất ở cả ba thừa: “Thiện nam tử! Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát đồng một Phật tánh như vậy…. Tại sao ba thừa không khác nhau? Sau này, các chúng sanh ấy mới tự hiểu rằng tất cả ba thừa là đồng một Phật tánh” (chương Như Lai tánh).

Chính vì đồng một Phật tánh, nên Phật giáo rốt lại chỉ có Nhất thừa: “Ba là đồng một vị: Tất cả chúng sanh đồng có Phật tánh, đều đồng Nhất thừa, đồng một giải thoát, một nhân một quả, đồng một cam lộ. Tất cả đều sẽ được thường, lạc, ngã, tịnh; đây gọi là đồng Một Vị” (chương Sư Tử Hống Bồ-tát).

Kinh ví Phật tánh như biển cả chung cho mọi làn sóng hiện tượng chúng sanh: “Điều thứ tám là Phật tánh chẳng thêm chẳng bớt, vì không ngằn mé, vì không bắt đầu và chấm dứt, vì chẳng phải sắc, vì chẳng phải tạo tác, vì là thường trụ, vì chẳng sanh diệt, vì đều bình đẳng với tất cả chúng sanh, vì tất cả đồng một tánh là Phật tánh. Đây gọi là không thêm không bớt. Do đây nên kinh Đại Niết Bàn này có tám điều chẳng thể nghĩ bàn như biển cả kia” (chương Sư Tử Hống Bồ-tát).

2. Phật tánh trong các tông phái thực hành

Trong Thiền tông, Lục tổ Huệ Năng gọi Phật tánh này là tự tánh: “Các thiện tri thức! Tự tánh Bồ đề xưa nay vốn thanh tịnh, chỉ dùng tâm này bèn được thành Phật” (Phẩm Hành Do thứ nhất). “Thiện tri thức! Trong mỗi niệm mỗi niệm, thường tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu, tự hành, tự thành Phật đạo”.

Trong phẩm Hành Do thứ nhất, Lục tổ kể về cơ duyên ngộ tánh của mình: “Ngũ tổ giảng cho Lục tổ kinh Kim Cương, khi nghe tới câu ‘Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm’, thì Huệ Năng ngay dưới lời nói đại ngộ, thấy rõ tất cả muôn pháp chẳng lìa tự tánh. Mới thưa với Tổ rằng:

Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh
Nào ngờ tự tánh vốn không sanh diệt
Nào ngờ tự tánh vốn tự tròn đủ
Nào ngờ tự tánh vốn không động lay
Nào ngờ tự tánh sanh ra muôn pháp”.

Lục tổ có giảng về Phật tánh trong phẩm thứ nhất như sau: “Phật nói: Thiện căn có hai: một là thường, hai là vô thường; mà Phật tánh chẳng phải thường chẳng phải vô thường, vậy nên chẳng dứt, ấy gọi là ‘chẳng hai’. Lại nữa, một là thiện hai là chẳng thiện, mà Phật tánh chẳng phải thiện chẳng phải chẳng thiện ấy gọi là pháp ‘chẳng hai’ Năm uẩnmười tám giới từ nơi phàm phu thấy thành hai, con người trí thì rõ suốt tánh nó ‘không hai’, cái tánh ‘không hai’ ấy tức là Phật tánh”.

Lục tổ còn nói về Phật tánh khá nhiều như nói với Phương Biện rằng “Ngươi khéo về tánh đắp mà chẳng rõ tánh Phật”, giảng cho ni cô Vô Tận Tạng về kinh Đại Bát Niết Bàn, hay giải rõ cho Chí Triệt về Phật tánh trong kinh Đại Bát Niết Bàn

Đại sư Padmasambhava, sơ tổ dòng Nyingma, người đã đem hệ thống Mật giáo Ấn Độ vào Tây Tạng, trong đó pháp Đại Toàn Thiện Dzogchen là pháp cao nhất thì luôn luôn đưa đệ tử vào Phật tánh để đệ tử thấy Phật tánhthường trực an trụ trong đó:

Hãy nghe đây, Dorje Dudjom họ Nanam!
Cái gọi là ‘tâm sáng tỏ của giác ngộ’
Là vốn sắn bên trong, bổn nhiên tự hữu và không tâm điểm cũng chẳng chu vi.
Chớ sửa chữa, chỉnh trang nó, mà ngay trong trạng thái vốn tự giáctrong sáng tự nhiên
Hãy không thay đổi, không làm biến chất, mà hãy an trụ, giải thoát trong tánh bổn nhiên!
Ở yên như thế, tâm con thoát khỏi vọng niệm
Chính nó là Phật!

(Những lời Khai Thị của Đức Liên Hoa Sanh về Con Đường Đại Toàn Thiện, Thiện Tri Thức, Nxb VHPG, 2009, trg 105).

Đại sư Milarepa, vị tổ thứ tư của dòng Kagyu Tây Tạng(mà chót đỉnh là Đại Ấn Mahamudra) nói về Phật tánh:

Thức nền tảng, vĩnh cửu và không biến dịch
Là người dẫn đường để thoát khỏi sanh tử luân hồi
Hạnh phúc thay cho người nào biết sanh tử và niết-bàn là không hai;
Kỳ diệu thay, sự gieo trồng cho vụ mùa này!
Sự tu hành định thanh tịnh không phóng dật này
Là người dẫn đường cho tánh Giác tinh khiết.
Hạnh phúc thay cho người nào biết cái hiện tiền là không hai
Kỳ diệu thay tánh Giác thanh tịnh như hư không này!

(Uống Dòng Suối Núi, Milarepa, Thiện Tri Thức 2002)

Như thế, Thiền, Dzogchen và Mahamudra đều giống nhau ở Nền tảngPhật tánh, Con đường đi đến Phật tánh trọn vẹn, và Quả Phật quả.

3. Phật tánh trong Phật giáo Việt Nam

Thế kỷ thứ VI, Đại sư Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi đem Thiền tông vào Việt Nam. Cái ngài trao truyền, khai thị gọi là Tâm Ấn. Cái tâm ấn này chính là Phật tánh:

Tâm ân chư Phật
Tất không lừa dối
Tròn đồng thái hư
Không thiếu không dư
Không đi không đến
Không được không mất
Chẳng thường chẳng đoạn
Vốn không chỗ sanh
Cũng không chỗ diệt
Bởi thế chư Phật ba đời
Cũng dùng như thế mà được
Tổ sư nhiều đời
Cũng dùng như thế mà được
Ta cũng dùng như thế mà được
Ngươi cũng dùng như thế mà được
Cho nên hữu tình vô tình
Cũng dùng như thế mà được…

Dòng Thiền thứ hai, do Đại sư Vô Ngôn Thông truyền vào đầu thế kỷ thứ IX. Cái ngài truyền cũng là Phật tánh bất sanh bất diệt:

Truyền pháp nhãn tạng
Gọi đấy Thiền
Tâm tông đều gọi
Thanh tịnh bản nhiên
Tây Thiên cõi này
Cõi này Tây Thiên
Xưa nay nhật nguyệt
Xưa nay sơn xuyên
Chạm đến thành trệ
Phật Tổ thành oan
Sai Nó mảy may
Mất nó trăm ngàn.
Ngươi khéo quan sát
Chớ lừa cháu con
Có hỏi người ta
Ta vốn Vô Ngôn.

Nhà vua thiền sư Trần Thái Tông (thế kỷ XIII) nói:

“Nào biết tánh Giác Bồ-đề, ai nấy đều vốn viên thành, có biết đâu thiện căn trí huệ, người người nguyên đều sẳn đủ. Chẳng kể đại ẩn hay tiểu ẩn, đâu có phân gì tại gia xuất gia. Chẳng nề tăng hay tục, chỉ cốt rõ tâm, nào kể gái trai, cớ sao vướng mắc hình tướng? Người chưa hiểu chia bừa thành Tam giáo, kẻ rõ rồi cùng ngộ một chữ Tâm. Nếu có thể hồi quang phản chiếu, đều được rõ tánh thành Phật. Huống gì thân người dễ mất, Phật pháp khó gặp. Muốn vượt vòng luân hồi sáu nẻo, chỉ có con đường tắt Nhất thừa”.

Tác phẩm Nam Hải Quan Âm mở đầu bằng các câu:

Chân Như đạo Phật rất mầu
Tâm trung chữ hiếu niệm đầu chữ nhân
Hiếu là độ được đấng thân
Nhân là cứu thoát trầm luân mọi loài
Thần thông nghìn mắt nghìn tay
Cùng trong Một Điểm Linh Đài hóa ra.

Thiền sư Chân Nguyên (thế kỷ XVII) viết trong Thiền tông Bản Hạnh:

Thuở xưa trời đất chưa sanh
Cha mẹ chưa có, thực mình Chân Không
Chẳng có tướng mạo hình dung
Tịch quang phổ chiếu viên đồng thái hư
Thánh phàm vô khiếm vô dư
Bất sinh bất diệt như như Di Đà
Liễu tri vạn pháp không hoa
Văn tự ngôn ngữ ấy là vọng duyên
Chân Như tánh vốn thiên nhiên
Vô tạo vô tác căn duyên của nhà.

Con đường Thiền Việt Nam là thấy Phật tánh, tin nhận Phật tánh rồi y vào đó mà tu, mà phát huy, mà tự khai mở trước Phật tánh vốn có từ “thuở trời đất chưa sanh” đó là ‘khuôn mặt xưa nay’ thuở “cha mẹ chưa có thật mình Chân Không”, đó là cái “vô tạo vô tác căn duyên của nhà”, cái “bất sanh bất diệt như như Di Đà”, mà “thánh không dư phàm không thiếu”.

Con đường Thiền Việt Namcon đường Nhất thừa “khai thị ngộ nhập” Phật tánh vậy.

(Văn Hóa Phật Giáo số 108)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8789)
Sinh thuận, tử an là một phước báo lớn của con người. Một khi chưa biết nghiệp duyên của mình sẽ chết bình an hay bất an thì hãy cố gắng tu tập các thiện pháp.
(Xem: 8486)
Bản Chất của Hạnh Phúc được trích từ tác phẩm Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc: Cẩm Nang cho Đời Sống, một quyển sách căn cứ trên sự mở rộng những đối thoại giửa Đức Đạt Lai Lạt MaBác sĩ Howard C. Cutter, một nhà tâm lý trị liệu phương Tây.
(Xem: 8022)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7779)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6977)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13845)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7578)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9341)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7870)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7812)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7367)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7756)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7482)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8691)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11101)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15473)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19265)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14951)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8853)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8856)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14718)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15308)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8551)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 11018)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11362)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8745)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9113)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19828)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24730)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8839)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9156)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10829)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9030)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7934)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8825)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8315)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7331)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11161)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7417)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8301)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17726)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44246)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45519)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45097)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10661)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8591)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7596)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7610)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7401)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12143)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7962)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8449)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9207)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8139)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8925)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 8045)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8212)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8713)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16380)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7160)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant