Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đời Vô Thường

21 Tháng Hai 201512:15(Xem: 21750)
Đời Vô Thường


ĐỜI VÔ THƯỜNG

Toàn Không



Đời Vô Thường1) – SINH TỬ LUÂN HỒI:

Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ. Một hôm, đức Phật bảo bốn chúng (Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Cư sĩ Nam, Cư sĩ Nữ):

- Nên tu tưởng (nhớ nghĩ) vô thường, nên quảng bá (phổ biến rộng rãi) vô thường. Đã tu tưởng vô thường quảng bá tưởng vô thường, thì đoạn diệt ái dục giới, ái sắc giới, ái vô sắc giới, đoạn hết vô minh, đoạn hết kiêu mạn, ví như đốt cháy cỏ cây, dẹp trừ sạch hết, đây cũng vậy, nếu tu tưởng vô thường, thì đoạn trừ hết tất cả kết sử, vì sao?

Ngày xưa về lâu xa, có một vị Trời (Thiên Tử) đem vô số (500) Ngọc Nữ đến dạo chơi trong vườn Nan Đà (Vườn Đại Hỉ phía Bắc cung Thiện Kiến của Vua Trời Đế Thích thuộc cõi Đạo Lợi) chơi đùa, dần dần đến cây đại thụ Ca Ni (cao 100 do tuần = 1,800 cây số), tự vui năm dục dưới gốc cây. Rồi Thiên tử này leo lên cây chơi, hái hoa, cười rỡn, lúc ấy tâm ý rối loạn nên rơi xuống mà chết. Các Ngọc Nữ thương tiếc lăn lóc kêu gào khóc than không dứt!

Chết rồi, Ông tái sinh đầu thai trong nhà Trưởng giả giàu có trong thành Xá Vệ, qua chín tháng sinh một bé trai đẹp đẽ khôi ngô. Con Trưởng giả dần dần lớn lên ăn học chăm chỉ thông minh tài giỏi. Khi trưởng thành, cha mẹ liền tìm con nhà danh giá đẹp đẽ nết na, hỏi cưới vợ cho con. Đôi trai tài gái sắc đẹp đẽ biết nhường nào, ai cũng khen lứa đôi hạnh phúc của đôi trẻ, nhưng cưới vợ chưa được bao lâu, người con lại chết, bỏ lại vợ đẹp bơ vơ. Bấy giờ cả nhà Trưởng giả, họ hàng thân quyến đều tiếc thương than khóc lăn lóc sầu khổ không ngừng!

Chết rồi, người con trai ấy tái sanh trong biển lớn, làm thân Thiên Long (Rồng Trời), sau một thời gian, Rồng Trời trưởng thành, Thiên Long thường vui đùa quấn quýt với các Long Nữ (Rồng Cái). Một hôm, Thiên Long bị Thiên Điểu (Chim Trời) cánh vàng bắt ăn, lúc ấy các Long Nữ thương tiếc sầu thảm vô cùng!

Khi Thiên Long ấy bị Chim Trời giết chết ăn, liền tái sanh vào Địa Ngục!

Ta đã dùng Sinh Tử Thông nhìn thấy rõ đường đi luân hồi sinh tử của con Trưởng giả kia như thế. Rồi Ngài nói kệ:

Trời kia lúc hái hoa,

Tâm ý loạn không an,

Như nước trôi thôn xóm,

Tất chìm không cứu được.

Bấy giờ chúng Ngọc Nữ,

Vây quanh mà khóc lóc,

Mặt mày rất đoan chính,

Yêu hoa mà mạng chung.

Loài người cũng than khóc,

Mất khúc ruột của ta,

Vừa bụng lại mạng chung,

Bị vô thường tan hoại.

Long Nữ theo sau tìm,

Các Rồng đều tu tập,

Bảy đầu thật dũng mãnh,

Bị Chim cánh vàng hại.

Chư Thiên cũng lo buồn,

Loài người cũng như thế,

Long Nữ cũng sầu lo,

Địa ngục chịu khổ đau,

Diệu pháp Tứ Đế này,

Như thật mà chẳng biết,

Có sinh thì có chết,

Chẳng thoát biển sông dài.

Thế nên hãy khởi tưởng,

Tu các pháp thanh tịnh,

Tất sẽ lìa khổ não,

Lại chẳng bị tái sinh.

LỜI BÀN:

Đức Phật nói: bốn đời của một chúng sanh, từ cõi Trời tới cõi Người, rồi cõi Thiên Long (tức là cõi Thần), và sau là cõi Địa ngục. Qua bài Kinh trên, chúng ta thấy rõ sự vô thường chuyển biền từ kiếp này sang kiếp khác, bốn đời như thế, nhưng không phải đến Địa ngục là hết. Chúng sinh ấy, sau khi hết hạn ở Địa ngục, lại tiếp tục tái sinh ở một cõi nào đó trong sáu cõi, mà chúng ta không thể thấy biết được, chỉ có bậc giác ngộ, hoặc các vị có Sinh Tử Thông mới thấy được đường đi luân hồi của chúng sanh mà thôi.

Đức Phật bảo: “Nên Tu tưởng vô thường, nên quảng bá tưởng vô thường, Đã tu tưởng vô thường, quảng bá tưởng vô thường thì đoạn ái dục giới, ái sắc giới, ái vô sắc giới, đoạn hết vô minh, đoạn hết kiêu mạn”.

Nghĩa là đã suy xét, đã thấy rõ, đã tưởng nhớ, đã biết như thật sự vô thường rồi thì không còn dính mắc, không còn tham đắm vào nhục dục, không còn bị sắc đẹp lôi kéo, không còn bị ý thức tưởng tượng mê hoặc. Như vậy đoạn trừ được sự ngu si mê muội, tức dứt vô minh, khi hết vô minh thì tâm kiêu mạn ngã mạn sẽ diệt.

Đức Phật nói tiếp: “Ví như đốt cháy cỏ cây, dẹp trừ sạch hết, đây cũng vậy, nếu tu tưởng vô thường thì đoạn trừ hết tất cả kết sử”.

Đức Phật ví: vô thường như cây cỏ, nếu tu tưởng vô thường cũng giống như đốt cây cỏ, sẽ cháy rụi sạch hết, mà tu tưởng vô thường thì sạch hết các kết sử, kết sử là gì?

Kết là tụ lại, Sử là sai sử, ràng buộc, Kết sử là bị trói cột. Kết sử có 5 loại, đó là: tham lam, sân giận, hôn trầm uể oải, phóng dật không yên, nghi ngờ do dự. Nếu đã thấy như thật sự vô thường rồi, thì không còn tham lam bỏn sẻn, không còn ghen tị đố kị hờn giận, không còn lười biếng uể oải, không còn phóng dật buông lung, không còn do dự nghi ngờ mình, nghi ngờ người, nghi ngờ đủ thứ nữa, khi đã tu tưởng vô thường thì sạch hết tất cả các kết sử ấy.

Đức Phật đã làm nhiệm vụ của bậc Tôn Sư, chúng ta là học trò phải học phải hiểu và hành, có làm hay không là tùy chúng ta tự định liệu lấy tương lai của chúng ta vậy.

--- :: ---

Có nhiều nhà Thơ nói về vô thường đau khổ của kiếp người, như nhà Thơ DƯƠNG HUỆ ANH trong bài “Bờ giá, trở về...” có đoạn Ông viết:

Thoáng....cuộc đời....qua....như bóng mây,

Gặp nhau đôi phút đã chia tay,

Xe luân chuyển biến dòng sinh tử,

Từng phút đau buồn chuyện đổi thay.

Cũng nói về vô thường, nhà Thơ CHU TOÀN CHUNG, cũng có bài thơ “Sự thực ở đời” như sau:

Hôm nay biết được hôm nay,

Ngày mai ai biết ngày mai thế nào,

Đời người thoảng giấc chiêm bao,

Sinh rồi tử đấy làm sao nói cùng,

Trần đời là cõi tạm dung,

Cuối cùng cát bụi về chung khác gì.

--- :: ---

Chúng ta đã biết đời là vô thường đau khổ, nhưng chúng ta còn cố chấp cái ngã, cái ta, cố bám víu vào cái của ta, thì chúng ta không thể trừ bỏ được kiêu mạn, chẳng thể thực hành được cái “không”, nên chúng ta vẫn bị sinh tử luân hồi theo ta như hình với bóng vậy.

--- :: ---

2) - TRÁNH CHẾT ĐƯỢC KHÔNG?

Một thời đức Phật ngự tại vườn trúc Ca Lan Đà thuộc thành La Duyệt, nước Ma Kiệt với 500 chúng Tỳ Kheo. Bấy giờ có bốn Phạm chí đã lớn tuổi thường tu pháp lành, đã đắc ngũ thông. Một hôm bốn người này bàn với nhau rằng: “Lúc thần chết đến chẳng tránh một ai, dù là người mạnh khỏe; chúng ta hãy đi ẩn nấp chỗ kín đáo để thần chết không thấy không biết chỗ ẩn nấp của chúng ta, thì sẽ không chết.

Lúc ấy một Phạm chí dùng thần thông bay lên không trung, người thứ hai lặn xuống dưới đáy biển lớn, người thứ ba chui vào hang núi rồi bít cửa hang lại, người thứ tư tự chui xuống đất “độn thổ”.

Bốn người trốn thần chết như thế một thời gian chẳng bao lâu người thứ nhất trốn trong không chết trong không trung, người thứ hai trốn dưới đáy biển chết dưới đáy biển, người thứ ba trốn trong hang núi chết trong hang núi, người thứ tư trốn dưới đất chết trong đất.

Bấy giờ đức Phật dùng Thiên nhãn xem thấy bốn Phạm chí tránh chết đều chết hết, nên Ngài nói kệ trước các Tỳ Kheo:

Không phải hư không biển,

Không hang núi dưới đất,

Không có một nơi nào,

Thoát khỏi không bị chết.

Rồi đức Phật kể câu chuyện bốn Phạm chí bàn luận và trốn chết như trên để khỏi chết, nhưng tất cả đều đã chết; rồi Ngài giảng cho các đệ tử muốn khỏi chết phải suy nghĩ tư duy bốn pháp:

1- Tất cả hành vô thường.

2- Tất cả hành khổ.

3- Tất cả pháp vô ngã.

4- Ba pháp trên tận diệt là Niết Bàn.

Nên: cùng tư duy thực hành bốn pháp trên sẽ thoát sinh già bệnh chết, sầu lo khổ não, các Ông nên học điều này.

LỜI BÀN:

Các Phạm Chí ngoại đạo tu cao nhất chỉ đạt năm Thần thông (ngũ thông), tức là “Thần túc thông (biến hóa), Thiên nhãn thông (nhìn thấu suốt), Thiên Nhĩ thông (nghe thông suốt), Tha tâm thông (biết tâm ý người khác), Túc mệnh thông (biết sinh tử luân hồi của mình)”; còn Phật giáo đạt thêm “Sinh tử thông (biết sinh tử luân hồi của chúng sinh) và Lậu tận thông (tự biết như thật sạch hết ô uế, sạch hết vô minh lậu, biết đã giải thoát khỏi sinh tử luân hồi).

Bài Kinh trên đây nói về không ai trốn khỏi chết đã rõ ràng. Nhưng phần chót của bài Kinh, đức Phật khuyên nên tư duy thực hành bốn pháp, chúng ta thử phân tích dưới đây:

1- Tất cả hành vô thường:

Hành là suy nghĩ, tạo tác, người biến chuyển, trải qua, vật biến dịch chuyển động, vô thưòng là thay đổi không cố định, nay thế này mai thế khác; vô thườngtính chất căn bản của đời sống. Tất cả mọi người, mọi sự vật sinh ra đều biến chuyển, đều có tính chất của bốn giai đoạn “sinh, già, bệnh, chết”, hay “thành, trụ, hoại, diệt”. Tất cả lời nói, ý nghĩ việc làm đều biến đổi, chẳng thường hằng, bởi vậy đức Phật nói: “Tất cả hành vô thường”.

2- Tất cả hành khổ:

Tất cả sự suy nghĩ tạo tác đều đưa đến khổ, vì thay đổi vô thường nên sinh ra khổ, như già yếu làm khổ, bệnh tật làm khổ, chết làm khổ, tất cả các sự biến đổi làm khổ chúng sinh. Cái xe, cái bàn, cái nhà lâu ngày cũ hỏng làm cho lo buồn, vì sự chuyển đối biến dạng ấy gây nên biết bao lo âu buồn rầu, nên đức Phật nói “Tất cả hành khổ”.

3- Tất cả pháp vô ngã:

Pháp ở đây là sự việc sự vật, vô ngã là quên hẳn mình, không thấy mình, không thấy tư tưởng mình, tất cả sự việc chẳng phải ngã, chẳng phải ta, vì chấp cái này cái kia là ta là của ta nên mới khổ. Như cái xe, cái bàn, cái nhà của ta, khi nó cũ nó hư nên ta buồn, nếu không chấp nó là của ta thì đâu có buồn khổ vì nó biến dạng hư hỏng. Ngay cả cái thân người gồm sắc và tâm, sắc là thân do tứ đại “đất nước gió lửa” hợp lại mà thành, bốn thứ này luôn luôn thay đổi, nên chẳng có cái nào là ta cả. Tâm gồm bốn thứ: “thọ tưởng hành thức”, mỗi thứ đều biến đổi khi có khi không, nên chẳng cái nào là ta được. Do đó sự việc sự vật vô ngã, thân vô ngã, tâm vô ngã, bởi vậy, đức Phật nói “Tất cả pháp vô ngã”.

4- Ba pháp trên diệt là Niết Bàn:

Nếu biết như thật đời là vô thường sẽ bớt khổ, nếu không chấp ngã sẽ diệt được khổ, khi biết mọi chuyển biến đổi thay ở đời là tất nhiên phải như thế, khi biết tất cả hành động việc làm, lời nói, ý nghĩnguyên nhân gây ra khổ, khi biết sự chấp ngã là thủ phạm đưa tới khổ. Nếu đã biết như thật như thế rồi sẽ hết khổ, được an vui vậy.

Do biết vạn vật vô thường, nên chúng ta chấp nhận những đổi thay của cuộc đời, như vậy là người hiểu biết sự vật một cách chân thật. Đây là người có chính kiến, thấy rõ mọi sự việc do nhân duyên sinh nên có, hết nhân hết duyên nên phải diệt, nên là không. Chẳng có cái gì có thực thể bản chất riêng biệt của nó mà tồn tại được, thấy rõ như vậy, mọi sự đổi thay, chuyển biến, ta sẵn sàng chấp nhận, và như vậy không có sự bất mãn trước sự thay đổi, không bất mãn, không bực tức khi nó chuyển biến hay mất đi thì không đau khổ nữa.

Sở dĩ chúng ta buồn khổ là vì sợ mất cái này, sợ mất cái kia, sợ thân này ốm đau, sợ thân này già xấu, sợ chết. Biết mọi vật là đổi thay vô thường, biết rõ không có cái ngã cái ta rồi, có mất, có bệnh, có già, có xấu, có chết, cũng là lẽ thường ở đời, chẳng có gì mà phải sợ, phải lo, phải buồn khổ, Như vậy được thảnh thơi an nhiên tự tại, khi đã được thảnh thơi an nhiên tự tại thì đâu có khác gì Niết Bàn?

Đức Phật khuyên chúng ta nên tư duythực hành về vô thường, khổ, vô ngã sẽ được Niết Bàn, nói đến Niết Bàn thì ai cũng ưa, nhưng khi áp dụng thực hành, xem ra nhiều người sợ, sợ cái gì? Sợ cực vì tính lười biếng, vì không suy tư kỹ lưỡng về vô thường, khổ vô ngã, nên mới bị cái “ta” ngăn cản, bị cái ta tìm đủ thứ lý do để bảo vệ nó, không cho tinh tấn suy tư hành trì. Nếu suy nghĩ kỹ càng, sẽ hành trì dũng mãnh, thấy rõ sự thật về vô thường, biết tường tận tất cả hành đều khổ, đánh tan tành cái ngã cái ta không còn manh giáp, mới thấy được Niết Bàn, như vậy có phải là tốt đẹp dường nào không?

Toàn Không

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8787)
Sinh thuận, tử an là một phước báo lớn của con người. Một khi chưa biết nghiệp duyên của mình sẽ chết bình an hay bất an thì hãy cố gắng tu tập các thiện pháp.
(Xem: 8484)
Bản Chất của Hạnh Phúc được trích từ tác phẩm Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc: Cẩm Nang cho Đời Sống, một quyển sách căn cứ trên sự mở rộng những đối thoại giửa Đức Đạt Lai Lạt MaBác sĩ Howard C. Cutter, một nhà tâm lý trị liệu phương Tây.
(Xem: 8020)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7774)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6974)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13843)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7575)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9338)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7867)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7810)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7365)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7754)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7482)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8688)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11097)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15473)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19257)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14946)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8851)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8855)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14710)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15305)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8551)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 11017)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11361)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8742)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9111)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19816)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24725)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8837)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9155)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10825)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9030)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7933)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8825)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8312)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7331)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11157)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7417)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8300)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17720)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44241)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45514)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45095)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10654)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8590)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7594)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7607)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7400)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12140)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7961)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8448)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9205)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8138)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8924)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 8044)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8207)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8712)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16369)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7158)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant