Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phép Thiền Định Và Các Học Phái

19 Tháng Sáu 201421:42(Xem: 14189)
Phép Thiền Định Và Các Học Phái

PHÉP THIỀN ĐỊNH VÀ CÁC HỌC PHÁI

Hoang Phong chuyển ngữ

Lời giới thiệu của người dịch

Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.

Một tập san Phật giáo vừa được ra mắt ở Pháp vào tháng 9 năm 2013 và trong số đầu tiên đã đặc biệt nêu lên chủ đề thiền định. Bài mở đầu do một học giả Pháp rất lỗi lạc là Philippe Cornu viết (đã được chuyển ngữ), nêu lên một vài nét chính yếu của phép luyện tập này, và tiếp theo đó là một loạt các bài viết khác xoay quanh cùng chủ đề. Tập san mang tựa là Regard Bouddhiste, có thể tạm dịch là Hướng nhìn Phật Giáo.

Trong số các hướng nhìn khác nhau về thiền định nêu lên trong tập san, chúng tôi xin chọn ra ba bài đại diện cho Phật Giáo Tây Tạng, thiền học Zen và Phật Giáo Theravada. Tất nhiên là nội dung trong các bài báo ngắn không thể so sánh với những gì thật sâu sắc và chi tiết trong kinh sách và các bài khảo cứu, thế nhưng cũng có thể mang lại cho chúng ta một ý niệm nào đó về một phép luyện tập chủ yếu và không thể thiếu sót đối với những người tu hành chân chính. Ba bài này sẽ được lần lượt chuyển ngữ dưới đây:

bài 1: Phỏng vấn nhà sư Ringou Tulkou Rinpoché (Lạt-ma Tây Tạng)
bài 2: Zazen hay tư thế ngồi thiền (Thiền sư Pierre Dôkan Crépon)
bài 3: Như một dòng nước yên lặng đang luân lưu (Tỳ-kheo Khất Sĩ Ajahn Chah)

regard_bouddhiste

Hình bìa tập san Regard Bouddhiste

(số tháng 9 và 10 / 2013)

Bài 1

Phỏng vấn nhà sư

Ringou Tulkou Rinpoché

ringou_tulkou_rinpoche

Ringou Tulkou Rinpoché (1952-)

Ringou Tulkou Rinpoché sinh năm 1952 tại tỉnh Kham Tây Tạng, và sau khi Trung Quốc đánh chiếm Tây Tạng thì ông và cả gia đình vượt biên sang tị nạn ở Ấn Độ. Vừa năm tuổi ông đã được vị lãnh đạo học phái Ca Nhĩ Cư là Karmapa XVI thừa nhận là người tái sinh của một vị đại sư quá cố của tu viện Rigoul. Ông đỗ tiến sĩ triết học Phật Giáo và được đào tạo theo cả bốn học phái Phật Giáo Tây Tạng. Hiện nay cứ mỗi năm ông giảng dạy khoảng sáu tháng tại Pháp.

Phỏng vấn nhà sư Ringou Tulkou Rinpoché

Phải luôn ghi nhớ là thiền định gồm có ba phép luyện tập

Tập san Regard Bouddhiste: Kính chào vị Đáng kính, xin Ngài vui lòng giải thích ngắn gọn phép thiền định là gì.

Ringo Tulkou Rinpoché: Tôi xin nói ngay đấy là một phép luyện tập, một phương pháp tập luyện nhằm biến cải chính mình bằng cách cải thiện những kinh nghiệm cảm nhận về con người của chính mình, và nhờ đó mình sẽ trở nên cao đẹp và nhân từ hơn, ích lợi cho người khác hơn: như thế gọi là thiền định. Thiền định không phải là một sự suy tư (meditation) mà gồm có ba phép luyện tập khác nhau, và chúng ta luôn phải ghi nhớ điều này.

Phép luyện tập thứ nhất nhắm vào trí tuệ. Đấy là cách tập nhìn vào mọi sự vật và tìm hiểu mọi sự vật. Biết nhìn vào mọi sự vật một cách minh bạchđúng đắn là một điều vô cùng quan trọng. Tóm lại phép luyện tập này dựa vào chủ đích tìm hiểu mọi sự vật là gì.

Phép luyện tập thứ hai là cách phải tiếp cận với sự sống như thế nào? Tức là cách phải giữ một thái độ hành xử ra sao trên phương diện thân xác, ngôn từtâm thức của mình? Nhiều người gọi đấy là việc giữ gìn giới luật, thế nhưng thật ra thì không hẳn đúng như thế mà đơn giản chỉ là cách phải hành động như thế nào cho thật đúng đắn, tất cả đều nhờ vào trí tuệ: khi nào quý vị phân biệt được hành động nào mang lại hậu quả tích cực và hành động nào mang lại hậu quả tiêu cực, thì tất quý vị cũng sẽ hiểu rằng mình phải hành xử ra sao để mang lại hậu quả tích cực cho mình và cho kẻ khác.

Phép luyện tập thứ ba là thiền định. Thiền định là một phép luyện tập tâm thức. Dù cảm thấy việc thiền định thật hữu ích và nên làm, thế nhưng lắm khi chúng ta lại không làm, chẳng qua chỉ vì một vài xúc cảm, thói quen hay xu hướng nào đó ngăn cản không cho chúng ta làm. Vì thế phải cải biến tâm thức mình khiến nó trở nên mềm dẻodễ bảo hơn. Dễ bảo có nghĩa là nếu quý vị bảo tâm thức "làm việc này" thì nó làm việc này, "không nên suy nghĩ quá nhiều" thì nó không suy nghĩ quá nhiều, "hãy suy nghĩ đi" thì nó suy nghĩ, "hãy tập trung tư tưởng" thì nó tập trung tư tưởng (tức là không phóng tưởng ra mọi hướng, chẳng hạn như không quay về quá khứ cũng không hướng vào tương lai, không nghĩ đến chuyện này, cũng không bắt sang chuyện kia), "hãy suy nghĩ một cách đúng đắn" thì nó suy nghĩ một cách đúng đắn (không suy nghĩ hay tưởng tượng xằng bậy). Sự dễ dạy của tâm thức thật vô cùng quan trọng đối với việc tu tập Phật Giáo, nếu không giữ được tâm thức dễ dạy thì nó sẽ trở nên bất trị, tương tự như một con khỉ phá phách hay một con voi đang lồng lộn. Muốn cho tâm thức dễ dạy thì phải để cho nó được yên và thư giãn. Tóm lại việc luyện tập thiền định là cách mang lại cho tâm thức sự thư giãn hầu giúp nó tìm về với thể dạng tự nhiên của nó.

Tập san RB: Vậy làm thế nào để thực hiện việc ấy?

R.T.R.: Có một giai thoại về bài thuyết giảng đầu tiên về thiền định của Đức Phật như sau: Ngài ngồi giảng bên bờ sông Hằng, các đệ tử bao quanh và lắng nghe. Thế nhưng bỗng dưng Ngài ngưng giảng và sai một đệ tử xuống sông múc một chậu nước mang lên. Đức Phật hỏi người đệ tử rằng: "Nước ấy có uống được không? Có sạch không?" Người đệ tử trả lời: "Bạch Thế Tôn, nước không uống được vì đầy bùn đất và mọi thứ cáu bẩn, thật không sạch tí nào". Đức Phật lại bảo như sau: "Tốt lắm, vậy cứ đậy chậu nước lại và để yên đấy, không nên chạm vào nữa". Đức Phật lại tiếp tục thuyết giảng. Một lúc thật lâu sau đó Đức Phật mới bảo với các đệ tử rằng: "Vậy hãy xem chậu nước bây giờ ra sao". Nhìn vào chậu nước một đệ tử thốt lên: "Ồ! chậu nước có vẻ sạch và có thể uống được rồi". Đức Phật bèn bảo rằng: "Trước đây nước không sạch, không uống được, bây giờ thì có thể uống được". Người đệ tử lại nói tiếp: "Trước đây nước xao động nên đục vì hòa lẫn với đủ mọi thứ. Nhờ để yên nên các thứ này lắng xuống, phẩm tính hay bản chất tự nhiên của nước nhờ đó đã hiện ra. Bản chất tự nhiên của nước mang tính cách tinh khiết và uống được".

Đức Phật lại giải thích thêm: " Cũng tương tự như thế, tâm thức chúng ta trong lúc này đang xao động khiến nó bị rối loạn, hoang mang và vướng vào mọi thứ xúc cảm, lo tính cũng như tình trạng căng thẳng (stress). Nếu chúng ta để nó thư giãn, giúp nó giữ được trạng thái tự nhiên, tức để yên không quấy rầy nó, thì phẩm tính đích thật của nó tất sẽ hiện ra. Một khi phẩm tính ấy hiện ra thì tâm thức cũng sẽ trở nên an bình, hân hoan, thân thiện và cởi mở hơn". Nếu muốn thực hiện được điều ấy thì phải giữ tâm thức thư giãn, không quấy rầy nó, không để nó rơi vào sự xao lãng (suy nghĩ hết chuyện này lại bắt sang chuyện khác), ngầy ngật hay mơ màng, có nghĩa là phải giữ tâm thức tỉnh táo và thư giãn (tuy nhiên trên thực tế việc ấy không phải dễ thực hiện. Khó khăn thứ nhất là không mấy ai trong chúng ta tự nhận mình đang sống trong tình trạng lo nghĩ, hoang mang và sợ sệt, trái lại luôn tự xem mình là sáng suốt, bình tĩnh và có lý..., và đấy cũng là lý do mang lại khó khăn và đớn đau cho mình và cho kẻ khác mà mình không ý thức được. Chỉ khi nào ngồi xuống trong yên lặng, chăm chú nhìn vào tâm thức mình để phân tích các xúc cảm đang hiện ra trong tâm thức thì mới nhận thấy tình trạng bấn loạn ấy đang chi phối mình thật nặng nề. Chỉ khi nào ý thức được thể dạng bị chi phối ấy thì mình mới hiểu rằng phải làm mọi cách để giữ cho tâm thức bình tĩnh, thư giãn và trong sáng. Tạo ra cho mình thể dạng bình lặng đó là khó khăn thứ hai: lúc đầu thể dạng đó cũng chỉ là một sự "tưởng tượng", sau đó và nếu cố gắng thì dần dần chúng ta sẽ "hé thấy" được nó, nếu tiếp tục "tập cho quen dần" (tiếng Tây Tạng gọi là gompa) với sự "hé thấy" ấy thì nó cũng sẽ hiện ra rõ ràng và thăng bằng hơn). Nếu quý vị giữ được thể dạng ấy trong một khoảng thời gian nào đó, thì tâm thức cũng sẽ trở nên mềm dẻo, dễ dạy và mình cũng sẽ dễ sống với nó hơn. Tóm lại thiền định cũng chỉ là như thế.

Sự chú tâm và một tâm linh luôn tỉnh thức là hai công cụ giúp chúng ta hành thiền

Thiền định cũng chỉ cần đến hai công cụ ấy!

Tập san RB: Thưa vị Tôn kính, kinh sách thường nói đến hai thể dạng tâm thức thật chủ yếu là nepa và gyurwa. Vậy hai thể dạng ấy giữ vai trò như thế nào đối với việc hành thiền?

R.T.R.: Nepa có nghĩa là tâm thức yên tĩnh, gyurwa có nghĩ là tâm thức đang vận hành, tức là đang trong thể dạng hoạt động. Tóm lạitâm thức hoặc ở trong tình trạng yên tĩnh hoặc ở trong tình trạng năng động. Yên tĩnh có nghĩa là thư giãn, bình lặng, không suy nghĩ quá đáng và cũng không quá xao động, thể dạng này gọi là nepa. Gyurwa có nghĩa là tâm thức trong tình trạng năng hoạt, nói cách khác là nó đang làm việc, tư duy nổi lên, xúc cảm hiện ra, tâm thức tìm hiểu hết chuyện này đến chuyện kia... Những gì trên đây cho thấy sự khác biệt giữa hai thể dạng nepagyurwa. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể sử dụng thiền định khiến cho tâm thức phải trở nên dễ dạy hơn dù là đang trong thể dạng bình lặng nepa hay thể dạng năng động gyurwa cũng thế. Phải cố gắng thực hiện được điều đó. Chúng ta không thể lúc nào cũng ở trong tình trạng tĩnh lặng được, chuyện đó không thể thực hiện được. Vì thế mỗi khi tâm thức bình lặng thì cứ để yên cho nó trong thể dạng thư giãn ấy, và hãy cảm nhận sự an bìnhhân hoan hiện ra với mình. Dầu sao cũng không thể giữ mãi được sự bình lặng ấy, do đó chúng ta cũng phải cố gắng tạo ra cho mình một sự thăng bằng nào đó cho tâm thức mỗi khi nó rơi vào tình trạng năng động. Chúng ta có thể tạo ra thể dạng thăng bằng trên đây bằng cách ý thức được là tâm thức mình đang làm việc. Mặc dù nó đang bận rộn và đang làm đủ mọi thứ chuyện thế nhưng chúng ta vẫn có thể giữ được sự tỉnh thức (pleine conscience / mindfulness / sự trầm tĩnhcảnh giác không cho những sự suy nghĩ của tâm thức lôi kéo mình vào các thể dạng xúc cảm bấn loạn), chúng ta vẫn giữ được một chút chú tâm nào đó về những gì đang xảy ra, tương tự như mình vẫn kiểm soát được tâm thức dù chỉ được một chút nào đó (dù chỉ kiểm soát tâm thức được "một chút", thế nhưng "một chút" ấy chính là điểm khởi đầu giúp mình "tập luyện thêm cho quen dần", bởi vì đến một lúc nào đó "một chút" ấy sẽ trở thành quan trọng hơn và mình sẽ kiểm soát và canh chừng được việc làm của tâm thức hiệu quả hơn). Thật hết sức quan trọng là phải biết lợi dụng cả hai thể dạng bình lặng và năng động trên đây trong mục đích biến cải tri thức mình và giúp mình tiếp tục tiến bước trên con đường tu tập (nếu tâm thức trong tình trạng bình lặng thì thật tốt, nên lợi dụng ngay những lúc ấy để tận hưởng sự an vui và hân hoan trong lòng, nếu nó đang cật lực làm việc thì nên canh chừng xem nó làm những việc gì, sự canh chừng đó sẽ giúp mình "quen dần" trong việc kiểm soát nó. Sự canh chừng và quen dần ấy chính là phép hành thiền, và hành thiền cũng có nghĩa là mình đang bước trên con đường đưa đến Giác Ngộ. Tu tập với cờ quạt phất phới, chuông mõ vang rền chỉ là cách dừng lại trên con đường để giải trívui chơi mà thôi).

Tập san RB: Vậy vai trò của sheshin và drenpa (tiếng Tây Tạng) là gì đối với sự chuyển đổi giữa hai thể dạng bình lặng và năng động?

R.T.R.: Drenpa có nghĩa là tâm linh tỉnh thức (pleine conscience / mindfulness), sheshin là sự chú tâm. Sự chú tâmtâm linh tỉnh thức là hai công cụ giúp chúng ta hành thiền. Thật ra chúng ta cũng chỉ có hai công cụ ấy thôi (nhà sư Ringou Tulkou mỉm cười).

Bures-Sur-Yvette, 30.10.13

Hoang Phong chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12283)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11967)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12863)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26726)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13116)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27110)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32949)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31757)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32645)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13073)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12207)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17580)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18810)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12619)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11821)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13178)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12291)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12549)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11706)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 12051)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10669)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10973)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28412)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11233)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11444)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13653)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11101)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11502)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10970)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11248)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26440)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12447)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14948)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11134)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20418)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12431)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11553)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10837)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 24025)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11931)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12389)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12914)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11125)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38813)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10616)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12281)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17793)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25169)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10605)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10836)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12120)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11411)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11672)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14800)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21514)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9980)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11330)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27478)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11239)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11912)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant