Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phép Thiền Định Và Các Học Phái

19 Tháng Sáu 201421:42(Xem: 14188)
Phép Thiền Định Và Các Học Phái

PHÉP THIỀN ĐỊNH VÀ CÁC HỌC PHÁI

Hoang Phong chuyển ngữ

Lời giới thiệu của người dịch

Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.

Một tập san Phật giáo vừa được ra mắt ở Pháp vào tháng 9 năm 2013 và trong số đầu tiên đã đặc biệt nêu lên chủ đề thiền định. Bài mở đầu do một học giả Pháp rất lỗi lạc là Philippe Cornu viết (đã được chuyển ngữ), nêu lên một vài nét chính yếu của phép luyện tập này, và tiếp theo đó là một loạt các bài viết khác xoay quanh cùng chủ đề. Tập san mang tựa là Regard Bouddhiste, có thể tạm dịch là Hướng nhìn Phật Giáo.

Trong số các hướng nhìn khác nhau về thiền định nêu lên trong tập san, chúng tôi xin chọn ra ba bài đại diện cho Phật Giáo Tây Tạng, thiền học Zen và Phật Giáo Theravada. Tất nhiên là nội dung trong các bài báo ngắn không thể so sánh với những gì thật sâu sắc và chi tiết trong kinh sách và các bài khảo cứu, thế nhưng cũng có thể mang lại cho chúng ta một ý niệm nào đó về một phép luyện tập chủ yếu và không thể thiếu sót đối với những người tu hành chân chính. Ba bài này sẽ được lần lượt chuyển ngữ dưới đây:

bài 1: Phỏng vấn nhà sư Ringou Tulkou Rinpoché (Lạt-ma Tây Tạng)
bài 2: Zazen hay tư thế ngồi thiền (Thiền sư Pierre Dôkan Crépon)
bài 3: Như một dòng nước yên lặng đang luân lưu (Tỳ-kheo Khất Sĩ Ajahn Chah)

regard_bouddhiste

Hình bìa tập san Regard Bouddhiste

(số tháng 9 và 10 / 2013)

Bài 1

Phỏng vấn nhà sư

Ringou Tulkou Rinpoché

ringou_tulkou_rinpoche

Ringou Tulkou Rinpoché (1952-)

Ringou Tulkou Rinpoché sinh năm 1952 tại tỉnh Kham Tây Tạng, và sau khi Trung Quốc đánh chiếm Tây Tạng thì ông và cả gia đình vượt biên sang tị nạn ở Ấn Độ. Vừa năm tuổi ông đã được vị lãnh đạo học phái Ca Nhĩ Cư là Karmapa XVI thừa nhận là người tái sinh của một vị đại sư quá cố của tu viện Rigoul. Ông đỗ tiến sĩ triết học Phật Giáo và được đào tạo theo cả bốn học phái Phật Giáo Tây Tạng. Hiện nay cứ mỗi năm ông giảng dạy khoảng sáu tháng tại Pháp.

Phỏng vấn nhà sư Ringou Tulkou Rinpoché

Phải luôn ghi nhớ là thiền định gồm có ba phép luyện tập

Tập san Regard Bouddhiste: Kính chào vị Đáng kính, xin Ngài vui lòng giải thích ngắn gọn phép thiền định là gì.

Ringo Tulkou Rinpoché: Tôi xin nói ngay đấy là một phép luyện tập, một phương pháp tập luyện nhằm biến cải chính mình bằng cách cải thiện những kinh nghiệm cảm nhận về con người của chính mình, và nhờ đó mình sẽ trở nên cao đẹp và nhân từ hơn, ích lợi cho người khác hơn: như thế gọi là thiền định. Thiền định không phải là một sự suy tư (meditation) mà gồm có ba phép luyện tập khác nhau, và chúng ta luôn phải ghi nhớ điều này.

Phép luyện tập thứ nhất nhắm vào trí tuệ. Đấy là cách tập nhìn vào mọi sự vật và tìm hiểu mọi sự vật. Biết nhìn vào mọi sự vật một cách minh bạchđúng đắn là một điều vô cùng quan trọng. Tóm lại phép luyện tập này dựa vào chủ đích tìm hiểu mọi sự vật là gì.

Phép luyện tập thứ hai là cách phải tiếp cận với sự sống như thế nào? Tức là cách phải giữ một thái độ hành xử ra sao trên phương diện thân xác, ngôn từtâm thức của mình? Nhiều người gọi đấy là việc giữ gìn giới luật, thế nhưng thật ra thì không hẳn đúng như thế mà đơn giản chỉ là cách phải hành động như thế nào cho thật đúng đắn, tất cả đều nhờ vào trí tuệ: khi nào quý vị phân biệt được hành động nào mang lại hậu quả tích cực và hành động nào mang lại hậu quả tiêu cực, thì tất quý vị cũng sẽ hiểu rằng mình phải hành xử ra sao để mang lại hậu quả tích cực cho mình và cho kẻ khác.

Phép luyện tập thứ ba là thiền định. Thiền định là một phép luyện tập tâm thức. Dù cảm thấy việc thiền định thật hữu ích và nên làm, thế nhưng lắm khi chúng ta lại không làm, chẳng qua chỉ vì một vài xúc cảm, thói quen hay xu hướng nào đó ngăn cản không cho chúng ta làm. Vì thế phải cải biến tâm thức mình khiến nó trở nên mềm dẻodễ bảo hơn. Dễ bảo có nghĩa là nếu quý vị bảo tâm thức "làm việc này" thì nó làm việc này, "không nên suy nghĩ quá nhiều" thì nó không suy nghĩ quá nhiều, "hãy suy nghĩ đi" thì nó suy nghĩ, "hãy tập trung tư tưởng" thì nó tập trung tư tưởng (tức là không phóng tưởng ra mọi hướng, chẳng hạn như không quay về quá khứ cũng không hướng vào tương lai, không nghĩ đến chuyện này, cũng không bắt sang chuyện kia), "hãy suy nghĩ một cách đúng đắn" thì nó suy nghĩ một cách đúng đắn (không suy nghĩ hay tưởng tượng xằng bậy). Sự dễ dạy của tâm thức thật vô cùng quan trọng đối với việc tu tập Phật Giáo, nếu không giữ được tâm thức dễ dạy thì nó sẽ trở nên bất trị, tương tự như một con khỉ phá phách hay một con voi đang lồng lộn. Muốn cho tâm thức dễ dạy thì phải để cho nó được yên và thư giãn. Tóm lại việc luyện tập thiền định là cách mang lại cho tâm thức sự thư giãn hầu giúp nó tìm về với thể dạng tự nhiên của nó.

Tập san RB: Vậy làm thế nào để thực hiện việc ấy?

R.T.R.: Có một giai thoại về bài thuyết giảng đầu tiên về thiền định của Đức Phật như sau: Ngài ngồi giảng bên bờ sông Hằng, các đệ tử bao quanh và lắng nghe. Thế nhưng bỗng dưng Ngài ngưng giảng và sai một đệ tử xuống sông múc một chậu nước mang lên. Đức Phật hỏi người đệ tử rằng: "Nước ấy có uống được không? Có sạch không?" Người đệ tử trả lời: "Bạch Thế Tôn, nước không uống được vì đầy bùn đất và mọi thứ cáu bẩn, thật không sạch tí nào". Đức Phật lại bảo như sau: "Tốt lắm, vậy cứ đậy chậu nước lại và để yên đấy, không nên chạm vào nữa". Đức Phật lại tiếp tục thuyết giảng. Một lúc thật lâu sau đó Đức Phật mới bảo với các đệ tử rằng: "Vậy hãy xem chậu nước bây giờ ra sao". Nhìn vào chậu nước một đệ tử thốt lên: "Ồ! chậu nước có vẻ sạch và có thể uống được rồi". Đức Phật bèn bảo rằng: "Trước đây nước không sạch, không uống được, bây giờ thì có thể uống được". Người đệ tử lại nói tiếp: "Trước đây nước xao động nên đục vì hòa lẫn với đủ mọi thứ. Nhờ để yên nên các thứ này lắng xuống, phẩm tính hay bản chất tự nhiên của nước nhờ đó đã hiện ra. Bản chất tự nhiên của nước mang tính cách tinh khiết và uống được".

Đức Phật lại giải thích thêm: " Cũng tương tự như thế, tâm thức chúng ta trong lúc này đang xao động khiến nó bị rối loạn, hoang mang và vướng vào mọi thứ xúc cảm, lo tính cũng như tình trạng căng thẳng (stress). Nếu chúng ta để nó thư giãn, giúp nó giữ được trạng thái tự nhiên, tức để yên không quấy rầy nó, thì phẩm tính đích thật của nó tất sẽ hiện ra. Một khi phẩm tính ấy hiện ra thì tâm thức cũng sẽ trở nên an bình, hân hoan, thân thiện và cởi mở hơn". Nếu muốn thực hiện được điều ấy thì phải giữ tâm thức thư giãn, không quấy rầy nó, không để nó rơi vào sự xao lãng (suy nghĩ hết chuyện này lại bắt sang chuyện khác), ngầy ngật hay mơ màng, có nghĩa là phải giữ tâm thức tỉnh táo và thư giãn (tuy nhiên trên thực tế việc ấy không phải dễ thực hiện. Khó khăn thứ nhất là không mấy ai trong chúng ta tự nhận mình đang sống trong tình trạng lo nghĩ, hoang mang và sợ sệt, trái lại luôn tự xem mình là sáng suốt, bình tĩnh và có lý..., và đấy cũng là lý do mang lại khó khăn và đớn đau cho mình và cho kẻ khác mà mình không ý thức được. Chỉ khi nào ngồi xuống trong yên lặng, chăm chú nhìn vào tâm thức mình để phân tích các xúc cảm đang hiện ra trong tâm thức thì mới nhận thấy tình trạng bấn loạn ấy đang chi phối mình thật nặng nề. Chỉ khi nào ý thức được thể dạng bị chi phối ấy thì mình mới hiểu rằng phải làm mọi cách để giữ cho tâm thức bình tĩnh, thư giãn và trong sáng. Tạo ra cho mình thể dạng bình lặng đó là khó khăn thứ hai: lúc đầu thể dạng đó cũng chỉ là một sự "tưởng tượng", sau đó và nếu cố gắng thì dần dần chúng ta sẽ "hé thấy" được nó, nếu tiếp tục "tập cho quen dần" (tiếng Tây Tạng gọi là gompa) với sự "hé thấy" ấy thì nó cũng sẽ hiện ra rõ ràng và thăng bằng hơn). Nếu quý vị giữ được thể dạng ấy trong một khoảng thời gian nào đó, thì tâm thức cũng sẽ trở nên mềm dẻo, dễ dạy và mình cũng sẽ dễ sống với nó hơn. Tóm lại thiền định cũng chỉ là như thế.

Sự chú tâm và một tâm linh luôn tỉnh thức là hai công cụ giúp chúng ta hành thiền

Thiền định cũng chỉ cần đến hai công cụ ấy!

Tập san RB: Thưa vị Tôn kính, kinh sách thường nói đến hai thể dạng tâm thức thật chủ yếu là nepa và gyurwa. Vậy hai thể dạng ấy giữ vai trò như thế nào đối với việc hành thiền?

R.T.R.: Nepa có nghĩa là tâm thức yên tĩnh, gyurwa có nghĩ là tâm thức đang vận hành, tức là đang trong thể dạng hoạt động. Tóm lạitâm thức hoặc ở trong tình trạng yên tĩnh hoặc ở trong tình trạng năng động. Yên tĩnh có nghĩa là thư giãn, bình lặng, không suy nghĩ quá đáng và cũng không quá xao động, thể dạng này gọi là nepa. Gyurwa có nghĩa là tâm thức trong tình trạng năng hoạt, nói cách khác là nó đang làm việc, tư duy nổi lên, xúc cảm hiện ra, tâm thức tìm hiểu hết chuyện này đến chuyện kia... Những gì trên đây cho thấy sự khác biệt giữa hai thể dạng nepagyurwa. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể sử dụng thiền định khiến cho tâm thức phải trở nên dễ dạy hơn dù là đang trong thể dạng bình lặng nepa hay thể dạng năng động gyurwa cũng thế. Phải cố gắng thực hiện được điều đó. Chúng ta không thể lúc nào cũng ở trong tình trạng tĩnh lặng được, chuyện đó không thể thực hiện được. Vì thế mỗi khi tâm thức bình lặng thì cứ để yên cho nó trong thể dạng thư giãn ấy, và hãy cảm nhận sự an bìnhhân hoan hiện ra với mình. Dầu sao cũng không thể giữ mãi được sự bình lặng ấy, do đó chúng ta cũng phải cố gắng tạo ra cho mình một sự thăng bằng nào đó cho tâm thức mỗi khi nó rơi vào tình trạng năng động. Chúng ta có thể tạo ra thể dạng thăng bằng trên đây bằng cách ý thức được là tâm thức mình đang làm việc. Mặc dù nó đang bận rộn và đang làm đủ mọi thứ chuyện thế nhưng chúng ta vẫn có thể giữ được sự tỉnh thức (pleine conscience / mindfulness / sự trầm tĩnhcảnh giác không cho những sự suy nghĩ của tâm thức lôi kéo mình vào các thể dạng xúc cảm bấn loạn), chúng ta vẫn giữ được một chút chú tâm nào đó về những gì đang xảy ra, tương tự như mình vẫn kiểm soát được tâm thức dù chỉ được một chút nào đó (dù chỉ kiểm soát tâm thức được "một chút", thế nhưng "một chút" ấy chính là điểm khởi đầu giúp mình "tập luyện thêm cho quen dần", bởi vì đến một lúc nào đó "một chút" ấy sẽ trở thành quan trọng hơn và mình sẽ kiểm soát và canh chừng được việc làm của tâm thức hiệu quả hơn). Thật hết sức quan trọng là phải biết lợi dụng cả hai thể dạng bình lặng và năng động trên đây trong mục đích biến cải tri thức mình và giúp mình tiếp tục tiến bước trên con đường tu tập (nếu tâm thức trong tình trạng bình lặng thì thật tốt, nên lợi dụng ngay những lúc ấy để tận hưởng sự an vui và hân hoan trong lòng, nếu nó đang cật lực làm việc thì nên canh chừng xem nó làm những việc gì, sự canh chừng đó sẽ giúp mình "quen dần" trong việc kiểm soát nó. Sự canh chừng và quen dần ấy chính là phép hành thiền, và hành thiền cũng có nghĩa là mình đang bước trên con đường đưa đến Giác Ngộ. Tu tập với cờ quạt phất phới, chuông mõ vang rền chỉ là cách dừng lại trên con đường để giải trívui chơi mà thôi).

Tập san RB: Vậy vai trò của sheshin và drenpa (tiếng Tây Tạng) là gì đối với sự chuyển đổi giữa hai thể dạng bình lặng và năng động?

R.T.R.: Drenpa có nghĩa là tâm linh tỉnh thức (pleine conscience / mindfulness), sheshin là sự chú tâm. Sự chú tâmtâm linh tỉnh thức là hai công cụ giúp chúng ta hành thiền. Thật ra chúng ta cũng chỉ có hai công cụ ấy thôi (nhà sư Ringou Tulkou mỉm cười).

Bures-Sur-Yvette, 30.10.13

Hoang Phong chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12653)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14543)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38572)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14679)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14678)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14106)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14990)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16590)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29964)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16252)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15585)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14939)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14936)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17921)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15629)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38742)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26796)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39721)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50864)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38805)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35132)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18355)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16521)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42476)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39326)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35674)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17508)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46595)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17193)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28525)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19023)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17637)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17143)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17603)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16570)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16961)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30939)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16971)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18552)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18519)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17421)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18193)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17113)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23558)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 17056)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17493)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17736)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17113)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15788)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18093)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17459)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17270)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29605)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27816)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18205)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16147)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15398)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23108)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14879)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55200)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant