Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2 Tri Nhận Tâm Lý Học, Động Cơ Và Tình Cảm

20 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 4581)
Chương 2 Tri Nhận Tâm Lý Học, Động Cơ Và Tình Cảm

CHƯƠNG II
TRI NHẬN TÂM LÝ HỌC,

ĐỘNG CƠ VÀ TÌNH CẢM


ĐỊNH NGHĨA TRI NHẬN 

 Tri nhận (Cognition) có ý nghĩa “Quá trình của sự hiểu biết” (knowing), là một vấn đề hoạt động tâm trí, sử dụng ngôn ngữ, tưởng tượng và phát sinh quan niệm (hoàn cảnh kích thích và đối với kích thích của phản ứng đã có). Loại “quá trình hiểu biết” nầy là một cái gì không thể trông thấy, chúng ta không thể thấy được những cái được mệnh danh là tư khảo, suy lý hoặc ký ức, nhưng, chúng ta có thể quan sátnghiên cứu hành vi do những hoạt động nầy sanh ra. Đức Phật dạy rằng, quá trình tri nhận của chúng tathực tại của quá trình cảm quan (reality of the sensory process), tri nhận của chúng ta cũng cùng với thành phần quan niệm và tưởng tượng của phi cảm quan (non-sensory) kết hợp tại một chỗ. Chỉ thú của tri thức tâm lý học của đức Phật và khoa học tánh của tâm lý học hiện đại đã có sự giống nhau. 

TRÍ THỨC AO HƠN 

 Đức Phật đã thử qua các loại phương pháp như khổ hạnh (penance), tự ngã khổ tu (self-mortification). Cấm giới (aroidance) và ẩn độn (seclusion) v.v… phát triển tự ngã. Loại phát triển về năng lực cao nầy, đã không phải là một loại thần bí mà chính là sự phát triển tự nhiên của một loại tiềm năng nào đó của một con người, nó không phải là sự xuất hiện đột nhiên của một lực lượng thần bí nào đó mà là sự phát triển một cách dần dần. Loại phương thức phát triển tiệm tiến nầy liên quan đến 3 giai đoạn : Tháo thủ đạo đức, công phu nhận định (samadhi or concentration) và sự bồi dưỡng của trí huệ. Loại đầu nhập nầy cần phải trải qua thời gian suốt đời thí nghiệm, đức Phật cuối cùng đã đạt đến sự phá trừ vô minh và những buộc ràng của phiền não

 Bất cứ ai tham cứu, tìm hiểu về tâm lý học tri nhận của Phật giáo thì đều không thể thờ ơ đối với những phạm vi tâm lý tri giác cao độ nầy. 

TRI NHẬN VÀ ĐỘNG CƠ 

 Tâm lý học tri nhận không thể tách rời động cơ nghiên cứu. Đức Phật sở dĩ phân tích động cơ của tâm lý nhân loại là vì muốn chỉ bày nguyên nhân thống khổ của nhân sinh, và tầm cầu phương pháp để làm giảm khinh sự thống khổ ấy, điều đó cũng chính là yêu cầu chúng ta cần phải có một năng lực tri nhận bén nhạy và tự cải thiện chúng ta. Dục vọng của nhân loại ảnh hưởng năng lực tri nhận, nhưng tri nhận cũng có tác dụng đối với dục vọng

 Đức Phật không chủ trương cắt đức dục cầu của cảm quan mà là chủ trương huấn luyện dục cầu của những cảm quan nầy để khiến cho những kích thích ngoại tại không thể nhiễu loạn nội tâm. Đức Phật đã không tìm cách nén ép, co rút cảm quan mà chỉ muốn làm cho cảm quan phát triển, cải thiện và tịnh hóa. 

TRI NHẬN VÀ TRỊ LIỆU 

 Đức Phật dạy rằng có hai loại phương phápthể đạt đến sự phát triển trên phương diện tinh thần : Ninh Tịnh (Tranquillity), sự tĩnh lặng an bình; và Đổng Kiến (Insight), sự nhìn thấy xuyên suốt bên trong sự vật. Nhưng, cũng có 5 loại nhân tố có thể nhiễu loạn sự phát triển của sự ninh tịnh trừ phi dùng công phu thiền định thì mới có thể khắc phục những nhiễu loạn nầy. Năm loại nhân tố nầy là dục cầu, ý chí xấu, lười biếng và chậm lụt, không trầm trước và lo lắng, hoài nghi. Đức Phật cũng đã chỉ dạy 7 loại nhân tố của Khai ngộ để có thể bồi dưỡng trí thức và đổng kiến của chúng ta, đó là : chánh tư duy, truy cầu Phật Pháp, tinh thần, hỷ lạc, ninh tịnh, thiền định và trấn định (bình tĩnh). 

 Sử dụng năng lực tri nhận của nhân loại để tịnh hoá tri giác và tư khảo của chúng ta thì sẽ hiện ra một khuôn thiết kế của cấu tưởng trị liệu tâm lý học. Vì thế, Đức Phật dạy : Đối với tâm lý học thì sự tri nhận trên phương diện thể hệ trị liệu cần phải đặt ở vị trí trung tâm

ĐỘNG CƠ (MOTIVATION) 

 Động cơ là một nguồn năng lực (source of energy) có trong cơ thể, nguồn năng lực nầy có thể sanh ra hành động, khiến nó đạt thành một loại khuynh hướng của mục tiêu nào đó. Động cơ có thể chia thành hai phần đó là sinh lýtâm lý. Trên phương diện sinh lý thì nó giống như những động cơ thực sắc và tử vong v.v… Trên phương diện tâm lý thì nó như là một giá trị quan thuộc về tín ngưỡng (tôn giáo) v.v… 

 Động cơ của tâm lý học Phật giáo chủ yếu là sự phân tích những phương diện dẫn đến sự bất an, khẩn trương, căng thẳng, nóng nảy, lo lắng, bồn chồn và cảm thọ đau khổ v.v… của nhân loại nhằm đề ra pháp môn bất nhị để hướng dẫn muôn loài đạt đến con đường hạnh phúc, vì thế, động cơ nghiên cứu tâm lý học Phật giáo ba hàm sắc thái trị liệu. Đứng trên quan niệm của tây phương ngày nay để nhận xét thì chữ trị liệu nầy thông thường được dùng để chỉ cho sự chữa trị những người có tật bệnh tâm lý; Nhưng nếu lấy tâm lý học Phật giáo để nói, thì nó được dùng để chỉ cho sự giải trừ tất cả sự xung đột trên mặt tâm lý và sự bất an của nội tại. Kinh điển Phật giáo đã đề cập rất nhiều đến phương diện động cơ của tâm lý học. 

TÌNH TỰ (EMOTION) 

 Ý của tình tự tức là sự kích động (Arousal), cảm giác (feelings) hoặc trạng thái tình cảm (affective states) mà cũng chính là do sự chuyển biến của phương diện sinh lý nên sanh ra phản ứng hành vi. Tình tự quen thuộc nhất là những tình tự yêu, hận, bi thương, và sung sướng, khoái lạc. Đứng trên mặt nội tỉnh để nói thì tình tựtrạng thái ý thức chủ quan; khác quan mà nói, tình tự là một loại biểu hiện hành vi. Trên phương diện tâm lý học để nói thì tình tự là một loại trạng thái không thăng bằng và kích động, nhưng không thể xem tình tự hoàn toàn như là vô lý tánh. Chúng ta có thể tìm được sự kiện toàn của tình tự luân lý như thương ái, tôn kính, chánh nghĩa cảm, quan tâm chân lý v.v… là những tình tự tự ngã siêu việt (self-transcending emotion), những tình tự nầy đều thuộc những tình tự tốt. Trong giáo lý Phật giáo có một số tình tự có thể được gọi là tinh thần cao quí, đồng tình và từ bi, nói một cách chính xác hơn, không tham lam, không sân hận, không si mê của tâm lý học Phật giáo được cho là nguồn tình tự kiện toàn, tích cựcsáng tạo tánh. Dưới đây chúng ta phân chia một số tình tự đặc biệt như sau : 

Sợ sệt (Fear) 

 Sợ sệt thông thường là chỉ cho sự phản ứng đã gây ra đối với sự vật có mục đích nguy hiểm nào đó. 

 Dục cầu quá mạnh và sự chấp trước đều có thể tạo nên sự sợ sệt. Bởi vì khi chúng ta quyến luyến không thể xả bỏ đối với một số vật quí báu và có giá trị thì chúng ta sẽ sản sanh một loại tác dụng cố chấp, lo lắng và sợ sệt bị mất nó ví như mình yêu thương quá đỗi một người nào đó đến khi người ấy bị lâm bệnh trầm trọng thì tâm lý thương yêu sẽ chuyển thành sợ sệt lo âu. Cũng giống như thế, chấp trước vào tự ngã, danh vọng, quyền lực v. v… đều sẽ sinh ra tâm trạng sợ sệt hay tâm lý khủng hoảng. 

 Mặc cảm tội ác (sense of guilt), khiển trách tự ngã (self-reproach), sợ sệt bị trừng phạt (fear of punishment) và sợ hãi bị đọa xuống địa ngục (fear of lower world) v. v… kinh nghiệm tôn giáo đều sanh ra sợ sệt. 

 Sợ sệt có lúc cùng với ghét hận (thậm chí tự hận) và tình tự bất mãn kết hợp và những lúc như thế thì liền sanh ra “cảm giác phạm tội trên bệnh lý” (pathological guilt) hoặc cảm thức bất an gọi là “ray rứt lương tâm” (uneasiness of conscience). 

 Đức Phật dạy rằng những ai chưa giác tỉnh thì đều có tự ngã trung tâm chủ nghĩa, dục vọng, địch ý và khuynh hướng chấp trước. Đức Phật chủ trương muốn giải trừ tận gốc những đặc chất này thì không cần thiết phải khiển trách tội lỗi quá khứ, bởi vì nếu tự mình khiển trách thì đối với sự phát triển tâm lý có rất nhiều phương hại. Đức Phật cũng đã đề xướng là cần tịnh hóa tình tự để đạt được tâm lý thăng bằng và lành mạnh

Bất an (Anxiety) 

 Bất an là một loại lấy vật không có mục đích làm đối tượng sợ sệt. Đức Phật dạy rằng nguồn cội sâu xa của loại sợ sệt nầy đã được tạo ra bởi sự chấp trước tự ngã. Chuyên gia Phật học Edward Conge gọi nó là “sự ẩn tàng của thống khổ” (concealed suffering). Đức Phật đã khám phá ra loại “con người bất an” nầy (anxious man) lý do là bởi họ không có năng lực để nắm vững chân lý cơ bản “Vô ngã” (Egolessness), cho nên mới dẫn đến sự bất an; chỉ cần liễu giải được “Vô ngã” thì có thể nắm vững được chìa khóa của sự bất an đối với đủ loại hình thức

Khống chế và biểu hiện của sự sợ sệt 

 Huấn luyện tình tự có thể trình bày trên ba phương diện : (1) Phát triển tập quán sát tự ngã đối với trạng thái tình tự của chính mình; (2) Khi tình tự hưng khởi phải tìm cách khống chế sự xuất hiện của tình tự; (3) Phát triển một quan niệm giá trị mới làm cho sự sợ sệt vốn có hoặc phản ứng của sự phẫn nộ không thể tái phát. Như thế, trải qua sự hiểu biết về tự ngã, không ngừng phân tích tự ngã và phản cầu những công phu của chính mình, cuối cùngthể đạt đến hiệu quả đúng như sự dự kỳ (thời kỳ dự trù). 

Thù hận 

 Thù hận cũng là một loại biê/U hiện của tình tự, có các loại phương thức biểu đạt chẳng hạn như tư tưởng (như là ý nghĩ mong cho những người mà mình không ưa thích chết đi), lời lẽ thô lỗ và những hành vi công kích v. v… Trên sự thật, đức Phật đã luôn nhấn mạnhphản đối sự thù hận, thậm chí bao gồm cả những “cuộc chiến chánh nghĩa” (just war) hoặc những “phẫn nộ chánh đáng” (righteous indignation) đối với cá nhân (và đối với xã hội). Đức Phật đã đề xuất sự chuyển biến nội tại (cầu phát triển tâm linh nội tại) có thể thuần phục tâm thù hận để tiến thêm bước nữa, đó là, dùng sự hiểu biết, nội tỉnh và tư tưởng để chế ngự tình tự thù hận, như vậy thì có thể tịnh hóa tự ngã mà đồng thời cũng có thể làm cho xã hội phát triển một cách hài hòa. 

Đau khổbi thương 

 Trên cơ bản, đau khổbi thươngtình tự phản ứng đối với “biệt ly”, ngoài ra như “mất mát” cũng sẽ đưa đến đau khổbi thương. Bởi vì đối với người chí thân, chúng ta đều xem họ như là một bộ phận của chính mình, một khi họ mất đi, ta sẽ sanh ra tình tự đau khổbi thương, Sigmund Freud gọi nó là “Bi thương và cưu mang” (lo lắng, ray rứt, thắc mắc trong lòng) “Mourning an Melancholoy”. Với Phật giáo thì đối với sự kiện của mục đích nào đó làm sản sanh sự tập trung tinh thần (cathexis) của tình tự mãnh liệt cũng chính là lúc chấp trước và, một khi mất đi đối tượng mục tiêu thì sẽ hiện ra trạng thái trống vắng hoang vu, khổn nhiễm tâm lý, tình tự tội ác cảm, bơ phờ, tự thương hại và tô một lớp âm ảnh màu xám lên các loại tình cảm bi thương

 Đối với bi kích bi thươngđau khổ nầy, “Tứ Diệu đế” và “Bát Chánh đạo” trong trong giáo nghĩa Phật giáo có khả năng làm phương thuốc trị liệu hữu hiệu. Thái độ của Phật giáoyêu cầu nhân loại hiểu rõ về chân thật cảm của sự tướng để thay thế cho tình tự bi thống quá độ

Ái và từ bi 

 Ái (Love), trên danh tự bằng Anh ngữ đã không mấy rõ ràng và rất mơ hồ, trong văn tự Hy Lạp nếu dùng tiếp đầu ngữ “eros” là biểu thị cho ái dục trên cảm quan, và nếu dùng “agape” thì lại biểu thị về ái đối với phương diện tâm linh

 Sự truy cầu của Phật giáo là một loại giá cấu luân lý (ethical framework) và sự hy cầu của lãnh vực tinh thần, vì thế trên phương diện luân lý Phật giáo đối với quan hệ nhân loại thì không phù hợp với ái dục của đạo đức, không phù hợp với dục cầu tiết chếtrụy lạc của đạo đức cảm, vì những thứ ấy đều bị cho là tà ác, bởi lẽ những thứ nầy đủ để gây nên những đọa lạc của xã hội, nhưng, chỉ có sự hiếu thuận và kiền thành đối với tôn giáo mới khả dĩ hình thành một cách cơ bản một xã hội lành mạnh. Người xuất gia đối với vấn đề ái dục cần phải dẹp trừ, vì lẽ ái dục có thể đưa dẫn đến sự bất anđau khổ đồng thời làm phương hại đến tinh thần hy cầu. Cái mà Phật giáo muốn truy cầu đó là một loại tình tự của sáng tạo tánh và tình tự của phản ứng đồng tình tự nhiên để quan tâm đến chúng sanh

TÂM LÝ HỌC KHÁT CẦU (PSYCHOLOGY OF CRAVING) 

 Đối với phương diện tâm lý học tình tự thì gồm có 3 loại hình thức khát cầu, đó là khát cầu thỏa mãn cảm quan, khát cầu bảo tồn tự ngã (self-preservation) và khát cầu hủy diệt và công kích. Ba loại khát cầu nầy đối với bản năng xung động (libido), tự ngã bản năng (ego instinct), và bản năng tử vong của Sigmund Freud đã có sự thống nhất. Xin được chia thành như sau : 

Dục tánh (Sexuality) 

 Thường, Phật giáo chỉ dùng cảm quan (như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) và bao quát hơn so với tâm lý học Tây phương (Phật giáo đề cập đến ngũ quan, nhưng tâm lý học Tây phương thì chỉ thiên nặng về mặt dục tánh, nhất là Phiến tánh luận của Sigmund Freud). 

 Đối với vấn đề truy cầu nguyên tắc khoái lạc (hedonism) của cảm quan, Phật giáo đã đưa ra hai phương pháp nhận thức : (1) Truy cầu cảm quan khoái lạc sẽ mang lại sự bất hạnh; (2) Thủ đoạn truy cầu cảm quan khoái lạc (hợp pháp và không hợp pháp), nếu hợp pháp thì cần phải suy tính đến việc không thể thái quá, đồng thời không phá hoại nguyên tắc khoái lạc làm điều kiện

 Phật giáo cũng cho rằng sự truy cầu khoái lạc của cảm quan chỉ ở bên dưới của sự tuần hoàn ác tánh của “nhu yếu, khẩn trương và thỏa mãn” (want tension and satisfaction) xuyên qua sự truy cầu của đau khổ mà thôi; vì thế, Phật giáo chủ trương dùng bát chánh đạo để chế ngự sự truy cầu của cảm quan khoái lạc. 

Bảo tồn sự tự ngã 

 Đây là một loại thành kiến sai lầm của sự ngã trung tâm chủ nghĩa, hoàn toàn đặt nơi giả định sai lầm (tín ngưỡng) tức tự ngã thực tại vĩnh tồn (ego-entity). Nhân cách kết cấu của nó là nhắm vào ba loại : Khát cầu, vọng tưởng và giả tưởng như sau : 

 Khát cầu – Đây là của ta. 
 Vọng tưởng – Đây là ta. 
 Giả tưởng – Đây chính là tự ngã. 

 Nhưng, Phật giáo cũng biểu thị một cách rõ ràng, nhu yếu của cơ bản duy sanh như không khí trong lành, nước, thức ăn, ngủ nghĩ v. v… chẳng hạn, đều được xem như là một loại biểu hiện của sự khát cầu. 

Tự ngã hủy diệt và công kích 

 Đối với phương pháp quan sát về tự ngã hủy diệt và công kích, Sigmund Freud cho rằng nó là một loại bản năng xung động; nhưng, Đức Phật thì lại dạy rằng nó là một loại hành vi phản ứng tánh. Khi một loại tình tự thù hận (đối với người hoặc vật) ở thế giới ngoại tại không được phát tiết thì nó lại hướng ngược về mình, vì thế nên sản sanh sự thọ hình tự ngã (khổ hình) và tự sát. Đức Phật đã quở trách sự phát sanh của 3 loại hình thức khát cầu trên đây và cho rằng vì do không hiểu rõ đạo lý khổ đau của nhân sinh nên tạo thành; đồng thời, đối với vấn đề thống khổ của nhân sinh vì thiếu công phu nội tỉnh nên tùy tiện tòng phục vào sự mê hoặc tự ngã và, kết quả là đưa dẫn đến những bi kịch.

TIỀM Ý THỨC ĐỘNG CƠ (UNCONSCIOUS MOTIVATION) 

 Tiềm ý thức động cơ là nói về sự thúc đẩy khiến cho con người tạo ra một thứ động tác nào đó nhưng lại không giác sát được động cơ chân chính (real motive) sở tại. Thông thường tiềm ý thức bị ký ức và tình tự áp bức, nhưng có thể là từ trong giấc mộng, thất ngôn, ảo giác, và trong những chứng trạng tâm lý thất thường để thuyết minh sự tồn tại của động cơ tiềm ý thức

 Quan niệm về tiềm ý thức của tâm lý học Tây phương được sáng tạo bởi Sigmund Freud, và người học trò của ông là Carl Jung lại khai sáng ra thuyết “Tập thể tiềm ý thức” (Collective unconsciousness), Carl Jung cho rằng tiềm ý thứccá thể. Tiềm ý thức (personal unconsciousness) tức là một số tâm lý cá thể nào đó bị áp chế hoặc bị sự bỏ quên; ngoài ra, còn có loại khác tức là tập thể tiềm ý thức, đó là chỉ cho tâm lý con người ngay khi vừa chào đời vốn đã sẳn có một loại trạng thái tâm lý phức tạp, Carl Jung gọi đó là “nguyên hình” (archetypes), nó là quan niệm văn hóa được truyền thừa từ đời này qua đời khác bởi tổ tiên của chúng ta, những kinh nghiệm đều được bảo lưu trong tiềm ý thức cá thể của chúng ta; một cách rõ ràng hơn, theo sự giải thích của Carl Jung thì nhân cách được cấu thành bởi 3 loại thành phần : Tự ngã, cá thể tiềm ý thức và tập thể tiềm ý thức. Tập thể tiềm ý thức là nguyên hình của bề sâu. Căn cứ theo thuyết của Carl Jung thì tập thể tiềm ý thức vốn có sẳn tố chất di truyền, làm cho cá thể và người của đời trước trên phương diện tri nhận về thế giới, có cách nhìn tương đối giống nhau. 

 Như nhân loại ở vào thời kỳ rất sớm đã lo sợ sự hắc ám, vì đen tối sẽ mang đến nguy hiểm; ngày nay, loại nguy hiểm này mặc dù đã biến thành quá khứ, nhưng nhân loại vẫn còn sợ hãi sự đen tối. Khái niệm tánh phổ biến hãi sợ của tập thể tiềm ý thức hoặc ánh tượng được gọi là nguyên hình. Nguyên hình là kinh nghiệm của tình tự đã đến từ bộ óc của sự truyền thừa tiến hóa. Như nguyên hình của người mẹ hiền từ xưa đến nay vẫn là biểu thị cho sự ấm áp, bảo bọc, dưỡng dục, mà cũng còn là sự tượng trưng cho ái mẫu; nguyên hình người cha là lực lượng, quyền oai và tượng trưng cho quyền lực. Những nguyên hình khác như ánh tượng nữ tính (anima), ánh tượng nam tính (animas), tự ngã (self), anh hùng, thần, sanh, tử v. v… cũng đều như thế cả. Thứ quan niệm nầy hơi giống với quan niệm A Lại Da thức hoặc chủng tử thức của Phật giáo (storehouse consciousness). 

 Dòng ý thức của Phật giáo (Stream of consciousness) cũng liên quan với tiềm ý thức động cơ. Phật giáo dạy chúng ta rằng nếu có khả năng tu tập kỹ thuật thiền định thì có thể sử dụng lớp trong của tiềm ý thức đen tối để tạo ra thành sự phát triển nhân cách một cách kiện toàn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14521)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38517)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14661)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14662)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14085)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14979)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16578)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29925)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16240)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15573)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14929)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14927)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17900)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15605)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38704)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26765)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39696)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50818)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38777)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35084)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18333)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16494)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42436)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39284)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35643)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17478)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46560)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17173)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28518)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19016)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17610)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17130)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17574)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16556)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16921)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30880)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16956)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18529)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18491)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17398)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18180)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17089)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23532)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 17014)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17477)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17696)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17078)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15759)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18070)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17450)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17233)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29555)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27761)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18199)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16133)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15391)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23072)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14864)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55155)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14219)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant