Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1 Ý Nghĩa Và Sự Hình Thành Duy Thức Học

28 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10615)
Chương 1 Ý Nghĩa Và Sự Hình Thành Duy Thức Học

KHẢO NGHIỆM DUY THỨC HỌC
TÂM LÝ HỌC THỰC NGHIỆM
Thích Thắng Hoan

Chương 1

Ý NGHĨA VÀ SỰ HÌNH THÀNH DUY THỨC HỌC


1/- DUY THỨC:

DUY: tiếng Pali gọi là Mãtratã, nghĩa là CHỈ CÓ.

THỨC: tiếng Pali gọi là Vijnãna (Consciousness), nghĩa là HIỂU BIẾT.

THỨC, ở đây tức là chỉ cho sự HIỂU BIẾT. Sự hiểu biết này chính là một năng lực có khả năng phân biệthiểu biết vạn pháp sai khác qua các cơ quan cảm giác. Thức (Sự hiểu biết) còn là một năng lực có khả năng xây dựng và biến hiện vạn pháp thành nhiều hình tướng không giống nhau với hình thức Nhân Duyên Sanh.

DUY THỨC: (Vijnãnamãtratã) nghĩa là chỉ có sự hiểu biết trên hết và ngoài sự hiểu biết ra không còn sự vật nào khác có thể thay thế được, nên gọi sự hiểu biếtDUY THỨC. Theo Duy Thức, vạn pháp trong vũ trụ gồm cả tâm lývật lý đều là hình tướng giả tạo, không có thể chân thậtchúng nó luôn luôn bị sanh diệt để biến hoại. Sự có mặt của vạn pháp chính là do THỨC kết hợp các yếu tố về vật chất như là: Đất, Nước, Gió, Lửa để tạo nên và sự sanh diệt của vạn pháp cũng là do THỨC tác dụng không ngừng. Chỉ có THỨC mới đủ khả năng tạo dựng và duy trì sự sống còn của vạn pháp, nên gọi vạn pháp đều do DUY THỨC BIẾN.

Chi tiết hơn, phàm bất cứ sự vật nào mỗi khi dùng làm đối tượng (Object) với mắt, tai, mũi, miệng, lưỡi và toàn bộ thân thể của con người thì ngay lúc đó, một năng lực hiểu biết phát xuất từ phía trong con người đó tác dụng để tiếp xúc với sự vật đối tượng trên liền phát sanh cảm giácphân biệt. Cũng do từ sự phân biệt này, những tư tưởng của hiểu biết mới nối tiếp hiện khởi và sáng tạo thêm nhiều sự vật khác không cùng bản chất và không cùng hình tướng. Những sự vật khác không cùng bản chất và không cùng hình tướng được sáng tạo thêm đều do tư tưởng của hiểu biết xây dựng nên để được góp mặt trong vũ trụ cũng gọi là do DUY THỨC BIẾN. Nói cách khác, những sự vật không có thể chất, nghĩa là những sự vật không có sức sống ở trong, do Ý Thức thứ sáu tưởng tượng xây dựng thì cũng thuộc loại giả tạo và cũng không thực thể, đều cũng được gọi là do DUY THỨC BIẾN.

Có thể nói, THỨC là nguồn gốc, là bản thể của tất cả pháp trong vũ trụ. Vạn pháp trong vũ trụ, nếu như không có THỨC này làm điểm tựa căn bản thì nhất định không thể sanh thành và cũng không thể tồn tại một cách độc lập. Minh định rõ hơn, ngoài THỨC ra, không có một sự vật nào tự nó có thể thành hình và tự nó có thể tồn tại một cách độc lập trong thế gian mà không cần đến THỨC. Từ đó cho thấy, sự thành hình, sự sống còn và sự tồn tại sanh mạng của vạn pháp đều do THỨC quyết định, nên gọi là DUY THỨC.

2/- DUY THỨC HỌC (Logic of Knowledge):

Duy Thức Học là một khoa học không ngoài mục đích khảo sát, tìm hiểu vạn pháp trong vũ trụ về phương diện tên gọi (danh xưng), tính chất, thực thể và những hình tướng không giống nhau của những pháp đó để chứng minh rằng, tất cả đều là giả tạo, đều là duyên sanh, đều không thực thể mà trong đó chỉ do Duy Thức làm chủ biến hiện. Nói cách khác, vạn pháp trong vũ trụ đều do Thức đứng ra kết hợp các yếu tố quan hệ, cần thiết để xây dựngchuyển hóa thành hình tướng. Duy Thức nếu như rút lui và không còn sinh hoạt nữa thì vạn pháp sẽ bị hoại diệt theo. Tâm Thức không có hình tướng, chỉ căn cứ nơi các sự vật có hình sắc trong vũ trụ do Tâm Thức kết hợp và biến hiện để xác định thực thể của Tâm Thức. Nhằm kết luận quy về Tâm Thức làm căn bản cho chúng sanh hiện có mặt trong vũ trụ. Duy Thức Học chú trọng đến giá trị tâm linh làm nền tảng để mở bày nguyên lý của vạn pháp.

B.- MỤC ĐÍCH CỦA DUY THỨC HỌC:

Duy Thức Học là một môn học về Tâm, bắt đầu từ nơi Thức để tìm hiểu nguồn gốc của Tâm, nguyên do Tâm chính là thể (Static State) của Thức mà Thức lại là tác dụng (Activity) của Tâm Thể. Tâm Thể nếu như không có thì không có Thức tác dụng. Thế nên các nhà Duy Thức căn cứ trên sự tác dụng của Tâm Thể mà đặt tên cho nó là Thức, nhưng Thức ở đây chính là Thức Tạng (Thức Alaya dịch là Thức Tạng, nghĩa là Thức Chứa). Thức Tạng là một loại Tâm Thứcgiá trị làm căn bản cho sự sanh khởi vũ trụ và nhân sanh, nghĩa là vạn pháploài người trong vũ trụ đều phát sanh từ nơi Tâm Thức này. Đó là lời khẳng định của các nhà Duy Thức.

Duy Thức Học còn nhiệm vụ nữa là tìm hiểu vạn pháploài người trong vũ trụ từ đâu sanh, ai sanh ra chúng và sanh bằng cách nào? Các nhà Duy Thức đi đến kết luận rằng: "VẠN PHÁP ĐỀU DO THỨC BIẾN HOẶC TẤT CẢ ĐỀU DO TÂM TẠO". Để minh chứng cho những lời kết luận trên, chúng ta nên dựa theo ba tiêu chuẩn của các nhà Duy Thức đã quy định để khảo sát. Ba tiêu chuẩn đó là:

1.- THỂ (Dynamic State): nghĩa là thể tánh hay bản thể của vạn pháploài người, tức là nguồn gốc phát sanh ra vạn pháploài người. Đứng trên lập trường Nhân quảnhận xét thì Thể ở đây là chỉ cho Nguyên Nhân (Cause), nghĩa là nguồn gốc để phát sanh ra vạn pháploài người.

2.- TƯỚNG (Form): nghĩa là hình tướng, tướng trạng của vạn pháploài người. Vạn pháploài người có nhiều hình tướng khác nhau thì nơi thể tánh nhất định cũng có nhiều nguyên nhân và chủng loại không giống nhau. Hình tướng của mỗi pháp khác nhau như thế nào thì nơi thể tánh, mỗi chủng loại cũng riêng biệt nhau và không giống nhau như thế đó. Nguyên do hình tướng của vạn pháploài người thảy đều phát sanh từ nơi thể tánh của mỗi chủng loại. Cũng như cây mít phát sanh từ nơi hạt mít và hạt mít chỉ sanh ra cây mít mà không thể sanh ra cây cam. Tướng ở đây là chỉ cho Quả Tướng, nghĩa là hình tướng thuộc loại kết quả của những nguyên nhân.

3.- DỤNG (Action): nghĩa là phần tác dụng của những nguyên nhân đã được phát sanh từ nơi thể tánh. Vạn pháp trong vũ trụ, có loại hiện ra hình tướng nhìn thấy được, có loại không hiện ra hình tướng mà người khảo sát chỉ biết qua sự tác dụng của chúng. Thí dụ như Tâm Lý của con ngườinăng lượng của điện không gian, chúng ta chỉ có thể hiểu biết qua sự tác dụng của chúng, mà không thể nhìn thấy được hình tướng thật của chúng. Dụng ở đây cũng là chỉ cho Quả Tướng, nghĩa là hình tướng thuộc loại kết quả của những nguyên nhân.

Các nhà Duy Thức căn cứ nơi TƯỚNG và DỤNG của vạn pháploài người, nghĩa là căn cứ nơi sự kết quả của vạn pháploài người đã được thành hình mà khảo sát bằng cách quán chiếu theo phương pháp Thiền Quán và nhờ đó tìm ra bản thể của chúng, đồng thời biét được chúng từ đâu sanh ra một cách chính xác.

Duy Thức Học dựa trên Thức Chi, một chi trong mười hai Nhân Duyên của đức Phật chỉ dạy làm trung tâm khảo sát, nhằm mục đích biện minh cho nguyên lý "VẠN PHÁP TRONG VŨ TRỤ ĐỀU DO NHÂN DUYÊN SANH " của đức Phật chủ trương qua trạng thái DUY THỨC BIẾN.

C.- LỢI ÍCH CỦA DUY THỨC HỌC:

Như trước đã trình bày, Duy Thức Học là một môn học nhằm mục đích nghiên cứu những hình tướng giả tạo do Nhân Duyên Sanh của các sự vật để tìm hiểu nguồn gốc sanh khởi vạn pháp. Từ đó, những học giả nào nếu như đã hiểu rõ Duy Thức thì lẽ đương nhiên những người đó đã giác ngộ được sự thật của vạn pháp, nhận thức đúng nguyên lý, phân biệt một cách rõ ràng lẽ chánh tà, chân vọng và họ không còn bị mê hoặc, không còn bị lầm lẫn bởi những chủ thuyết ảo tưởng, những chủ nghĩa giả tạo. Đồng thời họ cũng tẩy trừ được bệnh chấp trước (chấp ngã, chấp pháp) và giải thoát khỏi nguồn gốc sinh tử luân hồi trong ba cõi. Thế là những học giả nói trên đã chứng được trạng thái Niết Bàn Tịch Tịnh Hữu Dư (Nghĩa là tâm người đó đã đạt được trạng thái Niết Bàn, nhưng thân thể của họ còn bị ô nhiễm khổ đau nên gọi là Hữu Dư Niết Bàn).

Duy Thức Học lại còn mục đích nữa là liên kết mọi yếu tố cần thiết trong chiều hướng trở về nguồn tâm trí căn bản của chúng sanh để làm nền tảng cho sự chứng ngộ mà những học giả có thể nhận thức được rằng: Ngoài những hiện tượng giả tạo đã được kết hợp bởi hình thức duyên sanh, con người còn có Tâm Trí ở trong và Tâm Trí đó đã được chuyển hóa từ Tâm Thức. Tâm Trí này là tâm chân thật không sanh diệt, không nhơ sạch, không tăng giảm và nó chính là yếu tố vô cùng trọng đại trong mọi lãnh vực sanh tồn của chúng sanh.

Vì chú trọng giá trị tinh thần của Tâm Trí nói trên, những học giả Duy Thức Học sẽ cố gắng gia công cải tiến Tâm Trí của mình để được tốt đẹp, để được thuần lương và để làm môi trường cho sự tiến tu đạo nghiệp, ngỏ hầu sớm ra khỏi vòng đai sinh tử luân hồi trong ba cõi (trong Tam Giới), đồng thời đạt thành chánh giác qua phương pháp tu Duy Thức Quán.

Ngoaì ra, với tính cách mổ xẻ, phân tích chi ly các sự vật phức tạp hiện có mặt trong thế gian này để nhận thức về tính chất, giá trịý nghĩa của vạn pháp, Duy Thức Học còn làm thỏa mãn một phần nào những dữ kiện mà các nhà Khoa Học cần đến, đồng thời Duy Thức Học cũng là kim chỉ nam, cũng là chìa khóa giúp cho các nhà nghiên cứu Phật Học đi vào kho tàng Giáo Lý Đại Thừa.

D.- SỰ HÌNH THÀNH DUY THỨC HỌC:
(Phần lịch sử của Duy Thức Học):

Duy Thức Học là một trong những môn học về Tạng Luận, bắt đầu bằng sự hiểu biết nên gọi là Thức. Người sáng lập ra môn học này phần đông là các vị Bồ Tát.

Đầu tiên đức Phật Thích Ca khi còn tại thế thường giảng Duy Thức trong nhiều bộ Kinh như: Kinh Lăng Già, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Giải Thâm Mật, Kinh Mật Nghiêm, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Công Đức Trang Nghiêm v.v... cho các hàng đại Bồ Tát. Trong các đệ tử của đức Phật, Ngài Di Lặc (Maitreya) là một vị Bồ Tát đã đắc đạo về môn học này.

Khoảng 900 năm sau Phật nhập diệt, Ngài Vô Trước (Asanga) cũng là vị Bồ Tát ra đời, thọ giáo với Bồ Tát Di Lặc tại cung trời Đâu Xuất về môn học Duy Thức này. Sau khi đắc pháp, Bồ Tát Vô Trước đứng ra khởi xướng và phát huy môn học Duy Thức tại Ấn Độ. Em Ngài Vô Trước là Ngài Thế Thân (Vasubandhu) theo anh học Đạo. Đầu tiên Ngài Thế Thân sáng tác quyển "DUY THỨC TAM THẬP TỤNG" và quyển này được truyền bá khắp nơi trong nước Ấn Độ. Hệ phái tư tưởng Duy Thức được thành lập từ đây.

Đến thế kỷ thứ VI Tây Lịch, có nhiều đại Luận Sư rất lỗi lạc, nổi tiếng về môn học Duy Thức đã được xuất hiện tại Ấn Độ như: Thân Thắng, Hỏa Biện, Đức Tuệ, Trần Na, An Tuệ, Nan Đà, Tịnh Nguyệt, Hộ Nguyệt, Hộ Pháp, Giới Hiền, mỗi vị đều có sáng tác và chú thích nhiều bộ Luận để phát huy Duy Thức Học.

Đến đời nhà Đường bên Trung Hoa, niên hiệu Trinh Quán năm thứ 3 (636TL) có ngài Pháp Sư Huyền Trang du học ở Ấn Độ. Tại Đại học Nalanda, Ngài thọ giáo với Luận Sư Giới Hiền về môn học Duy Thức hơn mười năm.

Sau khi về nước, Ngài Huyền Trang đứng ra phát huy tư tưởng Duy Thức khắp Trung Hoa với tác phẩm: "THÀNH DUY THỨC LUẬN" do Ngài sáng tác. Ngoài ra Ngài Huyền Trang còn dịch nhiều bộ luận rất liên hệ về môn học Duy Thức, chuyển ngữ từ chữ Phạn ra chữ Hán. Đệ tử Ngài Huyền Tang, có các ngài như: Khuy Cơ, Tuệ Chiếu, Trí Châu v.v... thay nhau truyền bá môn học này.

Đến cuối đời nhà Nguyên (1279TL), môn học Duy Thức không người kế thừa nên bị mất tích tại Trung Hoa.

Mãi đến Dân Quốc năm 1912, có cư sĩ Dương Nhơn Sơn ở Nhật Bản, mang môn học Duy Thức về Trung Hoa phát huy trở lạithành lập "NỘI HỌC VIỆN CHI NA" để làm cơ sở nghiên cứu môn học Duy Thức cho những học giả trí thức trong nước. Nhờ đó môn học Duy Thức tại Trung Hoa được phục hưng trở lạimở rộng sang Việt Nam.

Riêng ở Việt Nam, môn học Duy Thức cũng được phổ biến từ lâu và những Luận Sư nổi tiếng về môn học này như: Thiện Hoa, Tuệ Nhuận, Thạc Đứ, Nhất Hạnh v.v... Đây là sự tiến trình môn học Duy Thức thành một hệ thống tư tưởng siêu đẳng và đã được lan tràn khắp nơi trên thế giới.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5647)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5851)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 5019)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4411)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4701)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4741)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5897)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3327)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5306)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2968)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4200)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5330)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4297)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3357)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6395)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5388)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4672)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6294)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6137)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3942)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6073)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4665)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4827)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3420)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6323)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4994)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3576)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3521)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5736)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4297)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6053)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5286)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3722)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3816)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3735)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3565)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5414)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4067)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4430)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5875)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3160)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3110)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3926)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4909)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3598)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3079)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4621)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4781)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3494)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4023)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4774)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3619)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3630)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5196)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4206)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3323)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3025)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3065)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3149)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3138)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant