Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đại Ý “Triệu Luận”

16 Tháng Chín 201421:58(Xem: 15124)
Đại Ý “Triệu Luận”

 

Đại Ý “Triệu Luận”

Tô Quân – Thích Nữ Dũng Liên dịch
(trích từ Phật giáo tam bách đề)

---o0o---



Mục Lục

I. CUỘC ĐỜI TÁC GIẢ

II. ĐẠI Ý “TRIỆU LUẬN”

1. Tôn bổn nghĩa

2. Vật bất thiên luận

3. Bất chân không luận

4. Bát nhã vô tri luận

5. Niết bàn vô danh luận

III. ĐỊA VỊ VÀ SỰ CỐNG HIẾN CỦA TĂNG TRIỆU

 

---o0o---

I. CUỘC ĐỜI TÁC GIẢ

“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo. Thời gian khoảng giữa đời Lương và đời Trần (Nam Triều) biên soạn thành tập gọi là “Triệu Luận”.

Tăng Triệu họ Trương, người Trường An, Kinh Triệu (nay là thành phố Tây An), sanh vào niên hiệu Thái Nguyên thứ 9 Hiếu Vũ Đế đời Đông Tấn (384), viên tịch niên hiệu Nghĩa Hy thứ 7 đời vua An Đế (414). Thời niên thiếu ham mộ tư tưởng Lão Trang, sau đó nhân đọc kinh Duy Magiác ngộ xuất gia. Sau khi xuất gia đọc tụng kinh, luận Phật Giáo đại thừa, thông hiểu kinh điển ba tạng kinh, luật, luận. Năm 20 tuổi trở thành nhà lý luận Phật Giáo nổi tiếngTrường An. Không bao lâu, Ngài Cưu Ma La Thập đến Cô Tạng (nay là huyện Vũ Uy Cam Túc), Tăng Triệu từ ngàn dặm xa xôi đến lễ La Thập làm thầy, theo La Thập tu học nghĩa lý Bát nhã học và được Ngài La Thập tán thán khen ngợi. “Triệu Luận” là quyển luận Phật Giáo về tư tưởng Bát nhã do Tăng Triệu trước tác trong cuộc đời ngắn ngủi của mình. 

---o0o---

II. ĐẠI Ý “TRIỆU LUẬN”

“Triệu Luận” gồm có 5 thiên : 

Tôn bổn nghĩa, Vật bất thiên luận, Bất chân không luận, Bát nhã vô trí luận, Niết bàn vô danh luận.

1. Tôn bổn nghĩa

Nội dung chủ yếu của “Tôn bổn nghĩa” là giải thích danh, tướng của Bát nhã học, cho rằng các khái niệm như : Bổn vô, Thực tướng, Pháp tánh, Tánh không, Duyên hội v.v... danh, tướng tuy sai khác nhưng nghĩa lý thì tương đồng, và cho rằng chỉ có xem “tánh không” thành “chư pháp thực tướng”, mới có thể chính xác lý giải giáo nghĩa Phật giáo

---o0o---

2. Vật bất thiên luận

Chữ “thiên” có nghĩa là “thay đổi”, “vận động”. Người thường nhìn thấy sự vật “sanh tử đổi thay, đông đến hạ đi” bèn cho rằng sự vật là vận động. Đối với vấn đề này Tăng Triệu cho rằng : Cách nhìn sự vật vận động, trên thực tế chỉ là một kiến thức sai lầm. Vạn sự vạn vaät, nhìn từ bề mặt tuy là vận động, thực tế không phải là sự vận động trung thực, cái gọi là vận độnghư ngụy giả tạo. Nhưng điều đó hoàn toàn không phải nói là sự vật tịnh chỉ. Sự vật tuy không phải là vận động, nhưng cũng không phải là tuyệt đối tịnh chỉ, cái gọi là tịnh chỉ cũng là hư vọng. Tăng Triệu cho rằng : Tất cả vạn vậttuy động mà thường tịnh, không bỏ động mà tìm cầu cái tịnh, tuy tịnh mà không lìa cái động, động và tịnh chưa từng có sự sai khác”, động tức là tịnh, tịnh tức là động, động tịnh nhất như. Cách nhìn này chính là sự biểu đạt tư tưởng Trung Quán Phật giáo đại thừa. Ngài Long Thọ trong “Trung Luận” đưa ra : Tất cả vạn phápBất sanh diệc bất diệt, bất thường diệt bất đoạn, bất nhất diệc bất dị, bất lai diệc bất xuất” (xuất cũng có thể gọi là khứ). 

Dịch : 

Không sanh cũng không diệt, không thường cũng không đoạn, không một cũng không khác, khoâng đến cũng không đi.

“Vật bất thiên luận” của Tăng Triệu chính là sự biểu đạt cụ thể đối với câu “bất lai bất xuất (khứ)”. 

---o0o---

3. Bất chân không luận

“Bất chân không luận” là thuyết minh cụ thể của Tăng Triệu đối vơùi Bát nhã không quán, đối với đề mục “Bất chân không” Tăng Triệu giải thích rằng : “Các pháp hư giả nên gọi không chân thật ; hư giả không thật cho nên là không”, không cũng chính là nói, tất cả các pháp đều do nhân duyên hòa hợpsanh khởi, vọng tưởng hư huyễn không thực, là một sự tồn tại không chân thực, nên gọi là “bất chân”. Về mặt khác, do vì các pháp không chân thật, đều do nhân duyên giả hợp mà có, nên nói là bổn tưï tánh không. Kỳ thực “bất chân” tức là “không”, “không” tức là “bất chân” ; “không” và “bất chân” không phải là hai khái niệm đối lập mà là đồng nhất. Phát xuất từ nhận thức này, Tăng Triệu đã tiến hành phê bình “lục gia thất tông” là các nhà các tông Bát nhã học nổi tiếng thời đó. Từ nội dung của bộ luận này có thể thấy rằng: Tăng Triệu đối với giáo nghĩa “Duyên khởi tánh không” do Long Thọ đề xướng, có lý giải vô cùng chính xác và sâu sắc. 

---o0o---

4. Bát nhã vô tri luận

“Bát nhã vô tri luận” là bài luận quan trọng của Tăng Triệu được hoàn thành sau khi tham gia công trình phiên dịch “Kinh Đại phẩm Bát nhã”, chủ yếu nhắm vào quan điểm Bát nhã hưõu tri tiến hành phê phán, từ đó trình bày đạo lý Bát nhã vô tướng vô tri

Bát nhã là tiếng Phạn, danh từ thường dùng của Phật giáo Ấn Độ, có nghĩa là trí huệ, tức là trí huệ nhận thức chư pháp tánh không. Tăng Triệu cho rằng: Bát nhã thì tuyệt đối vĩnh hằng, có thể chiếu soi tất cả, mà bản thân của nó lại là vô tướng, vô danh, vô tri. Sở dĩ như thế là vì chư pháp vô tướng, nếu có tướng tức là hư vọng, vì thế đối với Bát nhaõ mà nói, không có bất cứ cái gì cần nó phải đi nhận thức. Đó chính là hàm nghĩa của Bát nhã vô tri. Nhận thức luận này đã nói rõ phương pháp Trung Quán của đại thừa Phật giáo không rớt vào có, không lạc vào không, không rơi vào hai bên. Mà tác dụng chủ yếu của nó chính là muốn chúng ta quăng bỏ đi các thứ nhận thứcliên quan đến thế giới thế tục, từ đó tiêu trừ chấp trước, được giác ngộ giải thoát

“Bát nhã vô tri luận” còn bao gồm các bài “Thư hỏi của Lưu Di Dân” và “Trả lời thư của Lưu Di Dân” của Tăng Triệu, thuyết minh về nội dung Bát nhã học

---o0o---

5. Niết bàn vô danh luận

“Niết bàn vô danh luận” chia làm hai phần: 

Phần đầu là “Biểu thượng Tần Chủ Diệu Hưng” cũng gọi là “Thượng Tần vương biểu”, phần sau là bộ luận này. Bộ luận này có người nói do Diệu Hưng trước tác, gồm 9 chiếc 10 diễn, cho nên cũng có lúc xưng là “Niết bàn vô danh cửu chiết thập diễn”. Do vì thể tài, bút pháp, sự thật lịch sử, tư tưởng v.v... nhiều phương diện của bộ luận này có chỗ không giống với các trước tác của Tăng Triệu, nên các học giả cho rằng bộ luận này không phải do Tăng Triệu làm ra. 

Nội dung trung tâm của bộ luận này là thuyết minh thể Niết bàn tịch tịnh hư không , vi diệu vô tướng, không thể dùng ngôn ngữ văn tự biểu đạt, không thể dùng tâm phàm phu thế tục để nhận thức, nó vượt ra ngoài tất cả danh tướng, vì thế Niết bàn chẳng qua cũng chỉ là một loại giả danh mà thôi, nên gọi là Niết bàn vô danh

---o0o---

III. ĐỊA VỊ VÀ SỰ CỐNG HIẾN CỦA TĂNG TRIỆU

Tăng Triệu cuộc đời ngắn ngủi nhưng học thuyết của Ngài chiếm địa vị quan trọng trong lịch sử Phật giáo Trung Quốclịch sử triết học Trung Quốc

Tác dụng quan trọng này, đầu tiên là biểu hiện trên sự tổng kết và phê phán của Ngài đối với Bát nhã học thời Ngụy Tấn. Trước Tăng Triệu, Bát nhã học Phật giáo Trung Quốc thạnh hành là “Lục gia thất tông”, là: 

1. Bổn vô tông của Đạo An

2. Tâm vô tông của Chi Mẫn Độ

3. Bổn vô dị tông của Trúc Pháp Thâm, 

4. Sắc tông của Chi Đạo Lâm

5. Thức Hàm Tông của Vu Pháp Khai

6. Huyễn hóa tông của Đạo Nhất

7. Duyên hội tông của Vu Đạo Toại. 

Các tông các nhà này là các dòng chủ yếu của Bát nhã học trước thời Tăng Triệu, nhưng giáo nghĩa của lục gia thất tông tuy dùng tên Bát nhã học, nhưng thực tế khách quan mà nói, tư tưởng của các tông này bao hàm màu sắc huyền học của thời Ngụy Tấn vô cùng sâu đậm, đối với nghĩa lý Bát nhã đại thừa có một số lý giải sai lầm, hoặc thiên nặng về không, hoặc thiên nặng về sắc, hoặc thiên nặng về tâm, không thể lý giải chính xác đạo lý duyên khởi tánh không của Bát nhã học: Có tức là không, không tức là có, không và có chẳng phải một chẳng phải hai. 

Tăng Triệu theo học với Ngài Cưu Ma La Thập đã học được nguyên tắc tư duy biện luận của học phái Trung Quán Phật giáo Ấn Độ, đồng thời dùng học thuyết bản thể tác dụng của huyền học Ngụy Tấn thêm vào kiến giải của mình, đối với lý giải sai lầm của lục gia thất tông tiến hành phê phán, xiển thuật chính xác tinh thần cơ baûn của Phật giáo đại thừa: phi hữu phi không, tức động tức tịnh, tri tức bất tri, thể dụng nhất như, ngã pháp đều không. Giống như học thuyết Trung Quán, Ngài sử dụng phương pháp hai lần phủ định, đối với tất cả sự vật, không thừa nhận tuyệt đối là không cũng không thừa nhận tuyệt đối là có; không thừa nhận tuyệt đối vận động, cũng không thừa nhận tuyệt đối tịnh chỉ; không thừa nhận Bát nhã hữu tri, cũng không thừa nhận Bát nhã vô tri. Đối với chân thực tự tướng của vạn vật mà nói, tất cả tánh chất mà có thể dùng ngôn ngữ văn tưï để biểu đạt là hư giả. Nhận thức này của Tăng Triệu có thể nói là lý giải một cách chính xác giáo lý duyên khởi tánh không của Bát nhã học. Do đó, “Triệu Luận” của Tăng Triệu đã đánh dấu sự kết thúc của một thời đại, tức là kết thúc lục gia thất tông đã chịu sự chi phối của huyền học thời Ngụy Tấn, đồng thời cũng đánh dấu sự bắt đầu của một thời đại, tức là tư tưởng Bát nhã Không tông, bắt đầu thạnh hành trên đất nước Trung Quốc. Chính là từ Tăng Triệu bắt đầu, Bát nhã Không quán mới phổ biếu lưu hành trong tư tưởng Phật giáo Trung Quốc, trở thành lý luận trung tâm của sự phát triển tư tưởng Phật giáo Trung Quốc

Sau đó, Trung Quốc xuất hiện nhiều tông phái, hoặc ít hoặc nhiều đều lấy Bát nhã Không quán làm cơ sở lý luận cho tông phái mình.

Phật học viện Mân Nam – Hạ Môn - Trung Quốc

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13276)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14218)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15557)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13258)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19414)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24669)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15772)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37873)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13499)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13129)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17205)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13223)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17434)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21718)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13279)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14447)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12901)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13711)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28673)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23448)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34459)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28912)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32231)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11341)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12034)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26346)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17422)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14550)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34586)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13155)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12300)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13430)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40568)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26993)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14499)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13295)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13498)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12579)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13196)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12342)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11823)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12608)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17688)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12242)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12790)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18471)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14324)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 13023)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11341)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12205)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13517)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10877)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11111)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10318)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28953)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25335)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26890)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25808)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18703)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23083)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant