Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Về Bốn Bộ Cao Tăng Truyện Quan Trọng Trong Văn Học Phật Giáo Trung Quốc

12 Tháng Mười Một 201405:20(Xem: 8119)
Về Bốn Bộ Cao Tăng Truyện Quan Trọng Trong Văn Học Phật Giáo Trung Quốc

Về Bốn Bộ Cao Tăng Truyện Quan Trọng 
Trong Văn Học Phật Giáo Trung Quốc

TK.Thích Minh Nhẫn

 

Mục Lục

Lương Cao Tăng Truyện

Đường Cao Tăng Truyện

Tống Cao Tăng Truyện

Minh Cao Tăng Truyện

 

 

 

Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.

Cao tăng truyện chứa đựng một nguồn tài liệu vô cùng phong phú, có thể cung cấp cho độc giả biết thêm về công hạnh hoằng truyền chánh pháp của chư vị cao tăng cho đến các trung tâm dịch thuật, tác phẩm dịch thuật, học thuyết, tông phái, tư tưởng Phật giáo và nhiều sử liệu quan trọng.  Đặc biệt trong thể loại sử ký này còn ghi lại cả thành phần quan lại chuyên quản lý về tôn giáo và Tăng sĩ; các bậc đế vương đối đãi với Phật giáo như thế nào; các học sĩ danh tiếng đương thời có liên quan với Phật giáo ra sao . . . cho đến giao thông lịch sử văn hóa các triều đại. Nói chung Cao tăng truyện phản ánh rất nhiều phương diện vừa khách quan lại xác thực về  lịch sử các nhân vật Phật giáoliên quan đến Phật giáo. Quả thật đây là nguồn cứ liệu vô cùng quý báu để tham khảo nghiên cứu về sử Phật giáolịch sử văn hóa các triều đại trước đây của trung Hoa.

Trung Hoa là một trong những đất nước có ý thức ghi chép lịch sử sớm nhất trên thế giới này. Phật giáo khi truyền vào Trung Hoa đã tiếp nhận tinh thần văn hóa ấy. Do vậy chư vị cao tăng có tài viết lách và có năng khiếu sử học đều không bỏ qua những ưu điểmlịch sử đã để lại.

Về truyện ký và sử liệu của Phật giáo có thể phân làm 3 loại:

Truyện ký cá nhân: chuyên ghi chép về truyện ký của một vị cao tăng nào đó.

Loại truyện: chỉ ghi chép về các vị cao tăng có cùng một hệ thống, như cùng một tông phái, hay là các đoàn sang Thiên Trúc thỉnh kinh.

Tổng truyện: là loại sử ký ghi chép toàn diện. Nghĩa là chuyên sưu tập về truyện tích và công hạnh hành đạo của của chư vị cao tăng qua các triều đại. Cao tăng truyện thuộc loại thứ 3 này.

Trong văn học Phật giáo Trung Hoa có nhiều tác phẩm Cao Tăng Truyện và tên gọi cũng có sự khác nhau, như: Danh tăng truyện của Bảo Xướng soạn, Tân tu khoa phân lục học tăng truyện của Nguyên Đàm Ngạc soạn, Bổ tục cao tăng truyện của Minh Hà soạn, Tam thập nhị tổ truyện của Dân Trinh, Tân tục cao tăng truyện tứ tập do Dụ Khiêm soạn v..v..Những bộ sử ký này mang tính thời đại và chỉ có giá trị ảnh hưởng lớn đối với đương thời mà thôi. Để có giá trị ảnh hưởng lớn cho đương thời và ngày nay với tính phản ánh khách quan và chính xác thì không ngoài bốn bộ sau:

1. Lương cao tăng truyện (Cao tăng truyện) do Huệ Hạo đời nhà Lương biên soạn.

2. Đường cao tăng truyện (Tục Cao tăng truyện) do Đạo Tuyên đời nhà Đường biên soạn.

3. Tống cao tăng truyện: do Tân Ninh thời Bắc Tống biên soạn.

4. Minh cao tăng truyện: do Như Tinh thời nhà Minh biên soạn.

Sau đây chúng tôi lần lượt giới thiệu một cách khái lược vền 4 bộ sử ký quan trọng này.

 
---o0o---

Lương Cao Tăng Truyện

Lương cao tăng truyệncòn gọi là Cao tăng truyện do Huệ Hạo (497-554) ở thời nhà Lương biên soạn: trọn bộ gồm có tất cả là 14 quyển.

Huệ Hạotại Gia Tường tự. Ngài là một sử gia nổi tiếng trong giới Phật giáo, là người thông làu nội ngoại điển lại có tài viết lách. Trong lĩnh vực văn chương, ngài đã trước tác không ít tác phẩm giá trị để lại cho đời. Ngài thị tịch vào năm Thừa Thánh thứ 3 (554) triều đại nhà Lương, thọ 58 tuổi.

Sau khi xem qua các bộ sách kể về danh tăng, Huệ Hạo cảm thấy những quyển sách này biên soạn không trọn, thiếu trước hụt sau. Do vậy ngài hạ quyết tâm đọc hết các tài liệu hiện có kể về chư vị danh tăng, kể cả các sách sử ký, địa lý, phong tục tập quán ...  Sau đó, ngài y cứ trên những nền tảng sẵn có ấy mà tu chỉnh, bổ sung để soạn thành bộ Cao tăng truyện. Trước khi Huệ Hạo viết bộ này, cũng đã có một số vị trước tác kể về truyện tích của chư vị danh tăng thời bấy giờ như bộ Danh tăng truyện của Bảo Xướng... nhưng phần lớn đều lấy tên là Danh Tăng truyện.

Theo khảo sát của các học giả ngày nay, bộ sách này được xác định là viết tựa vào năm Thiên Giám thứ 18 (519) và hoàn thành vào năm Phổ Thông thứ 3 hoặc thứ 4 (522 hay 523) triều đại nhà Lương. Như vậy bộ sách này từ khởi công viến đến khi hoàn tất mất khoảng 4-5 năm, cả bộ sách này ghi nhận về cuộc đời hành đạo của các vị tăng từ triều đại Đông Hán Vĩnh Bình năm thứ 10 (67) và kết thúc vào Thiên Giám năm thứ 18 (519) của triều đại nhà Lương, tất cả khoảng thời gian là 453 năm.

Phần chính truyện ghi nhận lại cuộc đời hành đạo của 257 vị cao tăng; phần phụ lục thì có 274 vị. Toàn sách được phân chia làm 10 khoa: Dịch kinh, Nghĩa giải, Thần dị, Tập Thiền, Minh luật, Di thân, Tụng kinh, Hưng phước, Kinh sư, và Xướng đạo. Mỗi khoa của sách đều có một bài văn luận khái quát lại khoa đó. Tác giả bình luận ca ngợi những vị xuất sắc nhất trong khoa ấy đồng thời cũng phát biểu quan điểm bình luận của mình đối với những danh tài được kể trong truyện.

Đây là một bộ sử ký có nguồn tài liệu vô cùng phong phú, ngoài việc kể về cuộc đời hành đạo của chư vị cao tăng ra, còn bao gồm tất cả các học phái đương thời. Những mẩu truyện đã xẩy ra trong quá trình viết sách, dịch kinh. Đồng thời còn giới thiệu cho độc giả biết thêm những tác phẩm dịch thuật xuất sắc nhất của đương thời. Không những thế, Huệ Hạo còn chú giải về những học thuyết của chư vị cao tăng lúc bấy giờ và giải thích nội dung của những tác phẩm dịch thuật xuất sắc ấy. Trong đó còn cho biết thêm về các danh sĩđịa vị đương thời có những liên quan như  thế nào đối với Phật giáo, và những danh sĩ của phái huyền học là những ai, họ chủ trương gì ... Bộ truyện còn cho biết thêm về các tăng sĩ từ Tây vực sang Đông Độ hoằng truyền chánh pháp, từ Đông Độ sang Thiên  Trúc du học, thỉnh kinh cũng như các thông tin về giao thông, lịch sử, địa lý lúc bấy giờ . . .

Nói chung, Cao tăng truyện là bộ sử ký đề cập đến rất nhiều phương diện của xã hội trong hơn 400 rưỡi năm (67-519). Đây là một bộ sách làm y cứ về phương diện sử liệu của Phật giáo Trung Hoa nói riêng và lịch sử của đất nước này nói chung. Sách đã cung cấp không ít tài liệu quý báu cho giới học giả trước đây và ngày nay để nghiên cứu về những sự kiện giao lưu văn hóa giữa Trung Tây của xã hội cổ đại. Và cũng là một trong những tư liệu quý giá để nghiên cứu về lịch sử Nam Bắc triều. Bộ sách này cũng là một bộ truyện đầu tiên kể về cuộc đời hành đạo của chư vị cao tăng một cách hoàn chỉnh, chính xáctrân trọng. Đây thật là một bộ sách vô cùng quý giá đối với học giả Phật học, vì nó có thể cung cấp nhiều tư liệu giá trị để nghiên cứu về cuộc đời hành đạo, lịch sử của các cao tănglịch sử Phật giáo Trung Quốc. Ngoài ra còn là tài liệu y cứ để nghiên cứu những tác phẩm dịch thuật, học phái .  .  . của Phật giáo từ triều đại Đông Hán (Vĩnh Bình năm thứ 10) đến triều đại nhà Lương (Thiên Giám năm thứ 18). 

Bộ sách này cũng là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng của thời kỳ Lục triều, với lời văn lưu loát, ý nghĩa sáng rõ, y cứ chính xác.

Các bộ Đại tạng Kinh của các triều đại đã kết tập làm 2 phẩm phần truyện ký gồm 13 quyển, phần mục lục 1 quyển; tổng cộng là 14 quyển. Nhưng Thanh tạng thì sửa thành 16 quyển. Cao tăng truyện của Huệ Hạo đã được kết tập vào Đại chính tạng, Vạn tự tạng, Hoằng giáo tạng ...

 
---o0o---

Đường Cao Tăng Truyện

Đường cao tăng truyện còn gọi là Tục Cao tăng truyện hay Tục Cao tăng truyện nhị tập. Đây là một bộ sử của Phật giáo. Bộ sách này do Đạo Tuyên (596-667) ở triều đại nhà Đường soạn, toàn sách có tất cả 30 quyển (cũng có bộ làm thành 31 hay 40 quyển).

Đạo Tuyên nhân đọc bộ Cao tăng truyện của Huệ Hạo, ngài cho rằng bộ sách cao tăng truyện này cũng chưa ghi hết các cao tăng của triều đại nhà Lương, vì nó được viết và hoàn thành vào năm Phổ Thông thứ 3 hoặc thứ 4 (522 hay 523) của triều đại nhà Lương. Và từ năm Phổ Thông thứ 4-5 cho đến đời nhà Đường cũng có không ít cao tăng đáng ghi và cũng chưa thấy có bộ sách nào viết tiếp kể về truyện tích của quý ngài. Chính vì lý do này, Đạo Tuyên viết Tục Cao tăng truyện.

Tục Cao tăng truyện được căn cứ vào 3 nguồn tài liệu sau:

Tất cả các sách vở có liên quan đến và đang được lưu hành như bộ: Lạc Dương già lam ký, Tăng nha bồ tát truyện, Thập đức ký, Trí Giả đại sư biệt truyện, Tri kỷ sa môn truyện, Cảm ứng truyện, Chúng kinh mục lục . . .

Bia ký như: Lương Minh đế, Trần Thúc Bảo, Đạo An, Pháp Tuyên, . . .

Đích thân tác giả đi truy tìm tư liệu và phỏng vấn. Đạo Tuyên đã đến diện kiếnphỏng vấn các ngài Công Quá, Trí Thủ, Trí Tắc, ... trong đó bao gồm cả bằng hữu huynh đệ đồng môn cho đến Thầy Tổ.

Bộ sách này lúc ban đầu hoàn tất vào năm Trình Quán thứ 19 (645) của triều đại nhà Đường. Nhưng sau đó thì tác giả lại viết tiếp cho đến năm Lân Đức thứ 2 thì mới kết thúc hẳn. Như vậy bộ sách này chính thức hoàn thành trước khi tác giả mất 2 năm.

Toàn sách được phân là 10 khoa: Dịch kinh (4 quyển), Nghĩa giải (11 quyển), Tập Thiền (5 quyển), Minh luật, Hộ pháp, Cảm Thông (mỗi khoa 2 quyển), Di thân, Tụng đọc, Hưng phước, Tạp khoa (mỗi khoa 1 quyển), cộng chung toàn sách có tất cả là 30 quyển; trên 40 vạn chữ Hán. Sách kể về cuộc đời hành đạo của các cao tăng từ năm Thiên Giám nguyên niên (502) của triều đại nhà Lương cho đến năm Lân Đức thứ 2 (665) của triều đại nhà Đường. Phần chính truyện có tất cả là 485 vị và phần phụ lục có tất cả là 219 vị. Ngoài ra còn có phần bổ sung cho phần chính và phụ lục có khoảng 190 vị.

Bộ sách này kể về cuộc đời hành đạo của chư vị cao tăng từ việc dịch kinh viết sách, giảng kinh thuyết pháp, cho đến nghiên cứu tu học, truyền giới , . . . một cách vô cùng tỉ mỉ. Đây là một bộ sử ký có tính giá trị cao của Phật giáo Trung Hoa; và cũng là nguồn tư liệu quý hiếm để nghiên cứu về lịch sử của Trung Hoa thời Nam Bắc triều và Tùy Đường. Do tư liệu của tác giả tham khảo từ những bộ sách cổ được lưu truyền đến triều đại nhà Đường, và bia ký cộng với đích thân tác giả đến từ địa phương phỏng vấn, nên có độ chính xác rất cao.Vì vậy bộ sách này còn là một nguồn tư liệu quý hiếm để nghiên cứu về tư tưởng văn hóa của triều đại Tùy Đường.

Cao tăng truyện của Huệ Hạo không ghi chép về các cao tăng trong khoảng thời gian tác giả sinh tiền và phần lớn chỉ đề cập đến những vị cao tăng nơi phương Nam của Trung Hoa lúc bấy giờ. Nhưng bộ Tục Cao tăng truyện của Đạo Tuyên thì đề cập cả các cao tăng cùng thời với tác giả.. Đây chính là điểm đặc biệt của bộ sử ký này. Bộ sử ký này còn đề cập đến tất cả các cao tăng từ Bắc chí Nam của trung Hoa. Điều đó cũng tương đối dễ hiểu, vì vào triều đại nhà Đường, khắp Trung Hoa đã được thống nhất, còn dưới triều đại nhà Lương thì Trung Hoa bị phân đôi Bắc, Nam, vì vậy giao thông đi lại khó khăn. Huệ Hạo ở trên phần đất của nhà Lương thuộc Nam triều, do vậy các cao tăng tại Bắc phương đối với ngài cũng khó mà có được thông tin đầy đủ để đánh giá. Ngoài ra, bộ Tục Cao tăng truyện này còn đề cập đến cả hệ thống quan lại chuyên quản lý về tôn giáo, Tăng sĩ thời bấy giờ. Sách còn nói đến những trận chỉ huy tác chiến của Đường Cao tổ . . . Nhưng diều đáng tiếc là trong sách đã ghi trùng lặp một truyện, nếu không thì có thể nói rằng đây là một sách thập toàn thập mỹ. Nhưng thiết nghĩ khuyết điểm này không ảnh hưởng lớn đến giá trị của sách vì phạm vi của sách đề cập lại quá rộng và truyện tích thì lại quá nhiều. Cho nên bất luận thế nào đi nữa, Tục Cao tăng truyện cũng vẫn là một bộ sử ký giá trị, và có địa vị rất cao đối với hệ thống sử liệu Phật giáo Trung Hoa. Sách đã được kết tập vào các bộ Đại Tạng của các triều đại như Cao Ly tạng, Đại chính tạng, tần Già tạng (3 tạng này chia làm 30 quyển) Thích sa tạng (31 quyển), Gia Tường tạng (40 quyển).
 

---o0o---

Tống Cao Tăng Truyện

Tống cao tăng truyện còn gọi là Đại Tống cao tăng truyện hoặc Tống truyện, gồm 30 quyển, do Tân Ninh (919-1001) của triều đại Bắc Tống biên soạn, đây là một trong những bộ sử ký giá trị của Phật giáo Trung Hoa.

Triều đại bắc Tống rất coi trọng Phật giáo. Sau khi dựng nước, vua liền hạ chiếu in Đại tạng kinh (mộc bản) và thiết lập viện dịch kinh, độ tăng, tạo chùa . . . Để biểu dương ca ngợi các cao tăng, Tống Thái Tông hạ chiếu mời ngài Tân Ninh phụ trách biên soạn bộ sách này. Ngoài ra còn mời ngài Hiển trung và Trí Luân trợ giúp cho công trình.

Ngài Tân Ninh và Hiển trung, Trí Luân đã ròng rã hơn 7 năm, ngày đêm tra cứu sử liệu, bia ký, và đích thân truy tìm tư liệu, phỏng vấn mà soạn thành bộ sách này. Sách được khởi công biên soạn vào năm Tống Thái Công Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 7 (982) đến năm Đoan Củng nguyên niên (988) thì hoàn thành tại Hàng Châu. Và đến năm Chí Đạo thứ 2 (996) thì lại tu chỉnh một lần nữa.

Cả bộ sách được chia làm 10 khoa: Dịch kinh, nghĩa giải, Tập Thiền, Minh luật, hộ pháp, Cảm thông, Di thân, Đọc tụng, Hưng phước, Tạp khoa. Phần cuối của mỗi khoa đều có một bài luận. Sách biên tập về cuộc đời hành đạo của chư vị cao tăng của 10 triều đại (kể từ nhà Tống của Nam triều đến triều đại Bắc Tống). Phần chính truyện đề cập tất cả 531 vị, phần phụ lục có tất cả 125 vị. Đồng thời cũng có một bài luận với dạng tự vấn tự đáp để giải thích một số nghi vấn trong truyện. Sách còn bổ sung một số truyện tích về các cao tăngtác giả cho là bộ Cao tăng truyện của Huệ HạoTục Cao tăng truyện soạn còn thiếu sót.

Bộ sách này có những phản ánh xác thực và khách quan. Như ở khoa «Tập Thiền», sách đã ghi chép rất rõ về truyện tích của ngài Thần Tú, Thần Hội, Viên Tịch . . . Sách còn ghi chép cả tình huống tranh chấp giữa hai tông phái là Nam Thiền tông Đốn tu của ngài Huệ Năng, và bắc Thiền tông Tiệm tu của ngài Thần Tú. Ở một số bộ sách khác thuộc «Đăng lục» thì không có ghi chép những tình tiết này. Nhưng bô sách này lại ghi nhận tỉ mỉ và phản ánh một cách trung thực và khách quan. Do vậy sách còn là tài liệu quý hiếm để nghiên cứu về lịch sử phát triển của Thiền tông Trung Hoa. Ở khoa «Dịch kinh» thì sách đã ghi lại một cách tinh tế về đạo tràng dịch thuật của các triều đại cho đến chức vụ của chư vị dịch sư trong trung tâm dịch kinh. Đây cũng là nguồn tài liệu quý giá để nghiên cứu về lịch sử dịch thuật thời bấy giờ.

Tư liệu dẫn chứng trong bộ sách này rất đáng được tin cậy, vì phần lớn đã được đối chiếu và khảo sát qua. Nhưng đáng tiếc là có một số truyện tích trong sách được đề cập quá ngắn gọn và đã lược bỏ quá nhiều. Đồng thời cũng có một số truyện sắp xếp thời gian trước sau không được hợp lý lắm. Và cũng có một số vị cao tăng cũng chưa được đưa vào. Bộ sách này đã được kiết tập vào Đại Chính tạng, Vạn Tự tạng, Hoằng Giáo tạng. . .
 

---o0o---

Minh Cao Tăng Truyện

Minh cao tăng truyện còn gọi là Đại Minh cao tăng truyện, do Như Tinhtriều đại nhà Minh biên soạn. Toàn bộ có 8 quyển, nhưng cũng có nơi phân làm 6 quyển.

Ngài Như Tinh còn có pháp hiệu là Huyễn Vi, là đệ tử ngài Chân Thanh, thuộc Thiên Thai tông. Ngài thường ở tại chùa Từ Vân trên núi Thiên Thai và chùa Lăng Nghiêm. Ngài thông thuộc nội ngoại điển, có tài viết lách lại có khiếu về sử ký. Vào năm Vạn Lịch thứ 28 (1600) triều đại nhà Minh, ngài đã giám định lại bộ Kim Thang Biên và sau đó thì biên soạn bộ Đại Minh cao tăng truyện này. Hai chữ «Đại Minh» ở đây ý là chỉ cho bộ sử ký này biên tập về truyện của chư vị cao tăng có tính thời đại. Hay nói khác hơn là tiếp nối bộ Tống cao tăng truyện của ngài Tán Ninh đời nhà Tống biên soạn. Nhưng đứng về mặt nội dung, Đại Minh cao tăng truyện không nối tiếp được với Tống cao tăng truyện, vì Tống cao tăng truyện kết thúc chính thức vào năm Chí Đạo thứ 2 (966). Còn Đại Minh cao tăng truyện thì biên tập từ những năm cuối của triều đại nhà Tống. Đồng thời cũng có một số sách cho rằng bộ sách này biên tập về những vị cao tăng từ triều đại Nam Tống. Thiết nghĩ cách nói này không chính xác lắm , vì nó có đề cập đến ngài Phổ Giao, nhập tịch vào năm Tuyên Hòa thứ 6 (1124) của đời Huy Tông, Bắc Tống (những năm cuối của triều đại Bắc Tống). Bộ sách này hoàn thành vào năm Vạn Lịch thứ 45 (1617) của triều đại nhà Minh.

Đại Minh cao tăng truyện phân 3 khoa là: Dịch kinh, Giải nghĩa, Tập Thiền. 
Dịch kinh thì chỉ ghi chép về một vị là Sa La Ba (Shaluoba) của triều đại nhà Nguyên; Giải nghĩa thì đề cập về các cao tăng của triều đại Nam Tống đến triều đại nhà Minh năm Vạn Lịch (tất cả là 44 vị); còn khoa Tập thiền thì tập trung trong khoảng thời gian từ Bắc Tống (những năm cuối của Bắc Tống), đến đời Nhân Tông của triều đại nhà Nguyên (có 67 vị). Như vậy toàn bộ sách về phần chính truyện thì có tất cả là 112 vị và phụ lục thì có 68 vị. Bộ sách này về hình thức biên tập truyện tích và công hạnh hành đạo của chư vị cao tăng thì cũng giống như 3 bộ cao tăng truyện trước đây, nhưng bộ này khác hơn ở chỗ là chỉ phân làm có 3 khoa. Về hình thức luận, thuật thì theo mô dạng của Tống cao tăng truyện, nghĩa là phần cuối của khoa hoặc là phần cuối của truyện tích thì có bài luận tự vấn tực đáp để trình bày tư tưởngquan điểm của tác giả đối với khoa ấy hoặc là cá nhân của một truyện tích nào đó. Tư tưởng Phật giáo của Tống, Nguyên, Minh lúc bấy giờ chủ yếu là «Dung hòa các tông», và « Tam giáo hợp nhất». Đó là trào lưu tư tưởng phát triển mới của Phất giáo Trung Hoa. Trong Đại Minh cao tăng truyện đã phản ánh một cách xác thực và khách quan, đây cũng chính là nguồn tài liệu giá trị để nghiên cứu về tư tưởng Phật giáo lúc bấy giờ. 

Theo khảo sát thì được biết rằng bộ sử ký này đã được biên soạn căn cứ vào một số tư liệu như sau: Đại Dụng Tài Công Hành Nghiệp Bí, Nhã Công Tháp Minh, Thiên Ngạn Tế Công Tháp Minh, Ngũ Đăng Hội Nguyên, Phật Tổ Lịch Đại Thông Tái . . . Nói chung, nguồn tài liệu căn cứ tương đối phong phú. Điều đặc biệt là bộ sử ký này đã tập hợp được tất cả truyện tích sử ký của tất cả các cao tăng của 3 triều đại Tống, Nguyên và Minh. Điều này ở một số sách khác lúc bấy giờ thì chỉ rải rác không tập trung. Do vậy mà bộ sách này còn là nguồn tư liệu tham khảo để nghiên cứu về cuộc đời của các cao tăng của 3 triều đại nói trên. Nhưng điều đáng tiếc là có một số truyện tích được thuật kể trong sách lại quá ngắn vì đã lược bỏ quá nhiều, và cũng có một số truyện tích của một số cao tăng chưa được đề cập. Ngoài ra có một số truyện tích về thời gian và địa điểm của truyện xảy ra thì không được đề cập chính xác lắm, và có một truyện bị trùng lập thuật đến 2 lần. Nó cũng chủ yếu đề cập các cao tăng phương Nam của Trung Hoa lúc bấy giờ, do vậy mà thiếu tính toàn diện, và lại không nối tiếp được ưu điểm của Tống cao tăng truyện. Nhưng bất luận như thế nào đi nữa thì Đại Minh cao tăng truyện vẫn là một bộ sử ký quý giá của Phật giáo Trung Hoa. Vì sách này là nguồn tư liệu hiếm cung cấp cho giới học giả Phật học ngày nay nghiên cứu về truyện tích và cuộc đời, công nghiệp hành đạo của các cao tăng của 3 triều đại Tống, Nguyên và Minh. Bộ sách này đã được kiết tập vào Đại Chính Tạng, và Tục Tạng Kinh.

Tóm lại, bốn bộ sử ký thuộc thể loại «Cao tăng truyện» này được học giả Phật học ngày nay đánh giá cao, và coi đó là một trong những nguồn tư liệu đáng tin cậy để cung cấp cho độc giả là tư liệu tham khảo và nghiên cừu về văn hóa, tư tưởng, lịch sửcuộc đời, công nghiệp hành đạo của các vị cao tăng qua các triều đại. Nương vào đây ta có thể hồi ức và biết được những giai đoạn thịnh suy của Phật giáo Trung Hoa. Đọc lại những tấm gương sáng của chư vị cao tăng của các triều đại, chúng ta thấy quý ngài suốt cuộc đờiPhật pháp quên mình. Qua những tấm gương sáng đó, hoặc ít hoặc nhiều đã sách tấn người đời nay tinh thầnlý tưởng phụng sự Đạo và Đời.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6312)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8555)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5275)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5839)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7471)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6382)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5976)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4765)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5711)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5894)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6137)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6616)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5964)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7086)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6690)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4826)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4959)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7743)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9848)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7564)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5353)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6449)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5455)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5872)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6433)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5714)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6457)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7077)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6304)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10684)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6694)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6204)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6757)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6153)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6521)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5537)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8275)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5752)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7576)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6268)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9670)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4074)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6402)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4193)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4317)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4782)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5345)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5299)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5833)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6803)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5563)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4512)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5343)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5014)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4379)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6882)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4627)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8431)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7229)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8388)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant