Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 2: Điểm gặp nhau của Đông Tây

25 Tháng Hai 201520:16(Xem: 7376)
Phần 2: Điểm gặp nhau của Đông Tây
QUÁN CHIẾU VỀ SỰ TIẾP CẬN PHẬT GIÁO THỰC TIỂN 

Reflections on the Realistic Approach of Buddhism:
Talks to Former Dharamsala Residents from the West
His Holiness the Fourteenth Dalai Lama 
Dharamsala, India, November 2 – 3, 2010 
Ghi lại:  Sean Jones và Michael Richards 
Hiệu đính: Luke Roberts và Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển



PHẦN HAI: ĐIỂM GẶP NHAU CỦA ĐÔNG TÂY

Tri thức phương Đông và  khoa học  phương Tây

Những điểm gặp nhau giữa Đông và Tây là gì, tôi nghĩ 30 hay 40 năm trước tôi đã đề cập rằng tri thức phương Đông, chính yếuẤn Độ đây - một cách đặc biệt tri thức về những cảm xúctâm thức - là rất chi tiết; và đây là bởi vì có sự thực tập về tập trung [chỉ] và phân tích [quán]. Những thứ này không căn cứ trên tín ngưỡng hay ngoan đạo; chúng là để cho việc rèn luyện tâm thức.  Một cách tự nhiên, bất cứ giáo huấn nào với sự thực hành tập trung và phân tích sẽ có một sự giải thích về tâm thức: tâm thức hoạt động như thế nào, các cảm xúc hoạt động như thế nào.

Rồi thì Phật Giáo cũng có bát nhã hay tuệ [tỉnh thức phân biệt], và cũng trong Phật Giáo quan điểm then chốt là giáo thuyết vô ngã hay anatma. Cho nên nhằm để tranh luận về thuyết vô ngã, tự nhiên quý vị cần một sự thấu hiểu chi tiết hơn về si mê và những quan điểm bị bóp méo hay vọng tưởng. Và đối với những quan điểm vọng tưởng, năng lượng đối kháng duy nhất là cái thấy đúng đắn hay chánh kiến, không phải cầu nguyện, không phải chỉ sự thiền tập mà thôi. Rồi thì trong Mật thừa cũng có thảo luận về những cấp độ khác nhau của các thể trạng tinh thần - thể trạng tỉnh thức, thể trạng giấc mộng, thể trạng ngũ, hay thể trạng vào những lúc ngất xỉu. [đây là tất cả những thí dụ của tri thức phương Đông về tâm thức].

Dĩ nhiên, khoa học đến từ phương Tây. Những nhà khoa học, trong hầu hết mọi trường hợp, đến từ quá khứ Do Thái - Ki Tô giáo, thế nên một cách tự nhiên họ không để ý nhiều đến tâm thứccảm xúc và những thứ loại này. Trong truyền thống Do Thái - Ki Tô giáo, trình độ thực tập là giống [như những truyền thống tôn giáo phương Đông] - sự thực hành về bi mẫn, tha thứ, bao dung, cũng như toại nguyện và kỷ luật tự giác. Điều này là giống nhau trong tất cả những tôn giáo quan trọng. Nơi mà những tôn giáo này khác nhau là trong những cung cách thúc đẩy những giá trị nhân tính căn bản.

Có những tôn giáo căn cứ trên niềm tin vào một đấng tạo hóa, kể cả những truyền thống Ấn giáo [chấp nhận một đấng tạo hóa]; và bởi vì một cách tối hậu tùy thuộc vào đấng tạo hóa, chỉ niềm tin thôi là đã đầy đủ. Nhằm để giảm thiểu tự ngã của quý vị, thái độ vị kỷ, quý vị cần một niềm tin mãnh liệt vào Thượng đế tạo hóa. Quý vị hoàn toàn quy phục Thượng đế. Như vậy sẽ làm giảm thiểu thái độ vị kỷ của quý vị. Trái lại Phật Giáo không có khái niệm về Thượng đế - cũng như Kỳ Na giáo và một một bộ phận của phái Số Luận [kể cả Lão giáo] không có đấng tạo hóa - do thế tự quý vị phải thực hiện một nổ lực để thay đổi tâm thức quý vị. Không thể thay đổi những thứ này qua cầu nguyện.

Loài người đã phát triển niềm tin tôn giáo tối thiểu hơn ba hay bốn nghìn năm qua. Bất cứ khi nào người ta gặp khó khăn, họ sẽ cầu nguyện và đặt niềm hy vọng của họ vào đấng tạo hóa hay Thượng đế hay đặt niềm tin của họ vào Đức Phật. Giống như người Tây Tạng - chúng tôi chỉ đặt niềm tin vào Đức Phật, nhưng thiếu sót về những hành động ở trình độ con người, vì thế đó là tại sao chúng tôi đã đánh mất quê hương, có phải không?

Vậy thì trong vài nghìn năm lại đây - tôi nghĩ tối thiểu là bốn hay năm nghìn năm - con người đã đặt hy vọngniềm tin tột cùng của họ vào Thượng đế. Nhưng bây giờ, hai thế kỷ qua, khoa học và kỷ thuật đã phát triền và bắt đầu thỏa mãn nhiều hy vọng của con người. Trong vài nghìn năm trở lại đây, chúng ta hoàn toàn dựa vào niềm tin; nhưng bây giờ, không có niềm tin, những kết quả rõ ràng đang được sản sinh bởi khoa học và kỷ thuật. Con người, kể của phương Đông, đang dựa vào khoa học và kỷ thuật, và đúng là nhiều thứ đã hấp dẫn họ.

Nhưng càng về sau của thế kỷ hai mươi, càng nhiều người nhiều người đang trải nghiệm những giới hạn của việc chỉ có những giá trị vật chất mà thôi. Những sản phẩm vật chất cung cấp cho chúng ta sự thoải mái vật chất và thật sự cho chúng ta một loại hài lòng nào đó về cấp độ cảm giảc, nhưng không phải ở trình độ tinh thần thật sự. Nếu quý vị  so sánh kinh nghiệm trình độ tinh thầntrình độ cảm giác, kinh nghiệm trình độ tinh thần là quan trọng hơn nhiều. Tất cả chúng ta kinh nghiệm rằng khi thể trạng tinh thần của chúng ta hạnh phúc và tĩnh lặng, sự đau đớn vật lý có thể bị chinh phục. Nhưng sự thoải mãi vật chất không thể khuất phục thể trạng tinh thần của chúng ta khi chúng ta có quá nhiều đau đớn tinh thần, quá nhiều lo lắng. Thế nên rõ ràng thể trạng tinh thần của chúng ta là thiết yếu hơn.

Ngày càng nhiều nhà khoa học và bác sĩ nhận ra thể trạng tinh thần là rất rất quan trọng cho sức khỏe của chúng ta. Một tâm thức khỏe mạnh liên hệ rất nhiều đến một thân thể khỏe mạnh. Nhưng một tâm thức khỏe mạnh không thể được phát sinh từ thuốc men hay bia rượu hay ma túy. Một tâm thức khỏe mạnh không thể được ban cho qua tiêm thuốc hay mua từ siêu thị. Một tâm thức khỏe mạnh phải được phát triển từ trong chính tâm thức - từ niềm tin đến một sự mở rộng nào đóp nhưng không, không thực tế. Một niềm tin vững vàng chân thành có thể chỉ đến qua sự nghiên cứu và khảo sát.

Cho nên tôi cảm thấy điểm mà Đông và Tây gặp nhau không phải vì những lý do tôn giáo, mà chỉ đơn giản là vì khoa học về tâm thức.

Những Khía Cạnh Khoa Học Của Truyền Thống Na Lan Đà

Tôi đã từng tham dự những buổi gặp gở với các nhà khoa học trong 30 năm qua. Vào lúc đầu - tôi nghĩ là 40 năm trước đây - tôi đã phát biểu tới một số người bạn của tôi rằng tôi muốn có một cuộc đối thoại với các nhà khoa học. Một phụ nữ Mỹ đã nói với tôi, "Khoa học là kẻ giết tôn giáo. Hãy cẩn thận." Nhưng rồi thì tôi đã nghĩ về truyền thống Na Lan Đà. Họ có thể khảo sát và thể nghiệm với giáo lý, và nếu họ tìm thấy bất cứ sự mâu thuẩn nào họ sẽ phủ nhận một cách chính xác những lời của chính Đức Phật. Chính Đức Phật cũng nói một cách rõ ràng: "Không môn đệ nào của tôi phải chấp nhận giáo huấn của tôi vì niềm tin, do lòng sùng mộ, mà đúng hơn là qua một sự khảo sát và thể nghiệm toàn diện." Các vị đạo sư có tự do để tiến hành sự khảo sát thậm chí chính lời của Đức Phật. Và cũng thế những người Tây Tạng chúng tôitừ ngữ drangdon và ngedon - giáo lý nhất thời [bất liễu nghĩa] và giáo lý tuyệt hảo [liễu nghĩa]. Vì thế cho nên tôi nhận ra tầm quan trọng của truyền thống Na Lan Đà là trên sự khảo sát hơn là niềm tin.

Toàn bộ hệ thống của Phật Giáo là căn cứ trên thực tại, thực tế ngày nay. Hai chân lý [chân đếtục đế] là những giải thích về thực tại. Rồi thì căn cứ trên thực tại ấy, chúng ta có thể thực hiện sự phân biệt về chánh kiếntà kiến [thấy đúng và thấy sai]. Cho nên nhằm để chứng minh đây là những cái thấy sai, chúng ta phải khảo sát thực tại của chúng. Luôn luôn có một lổ hổng giữa những hiện tướngthực tại. Nhiều cái thấy sai căn cứ trên các hiện tướng, và hầu hết những cảm xúc tàn phá đến từ những cái thấy sai - dính mắc , chấp ngã. Thế nên trên căn bản ấy, chúng taý tưởng về Bốn Chân Lý Cao Quý. Chỉ dựa vào lời của Đức Phật nói. "Ô, Đức Phật tuyên bố về Bốn Chân Lý Cao Quý," là sai. Chúng ta phải chứng minh Bốn Chân Lý Cao Quý. Chúng ta phải biết hệ thống thật sự hay cấu trúc của Bốn Chân Lý Cao Quý.

[Xem: giới thiệu vắn tắt về Bốn Chân Lý Cao Quý]

Vì thế tôi nhận ra rằng khoa học cũng cố gắng để tìm ra thực tại, sự thật - chân lý, nhưng dĩ nhiên ở một lãnh vực khác. Người Phật tử cũng đang cố gắng để tìm ra thực tại. Tôi  nghĩ cả hai thật sự là sự bổ sung cho nhau, tuyên bố nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình: "Hãy tìm sự thật từ những sự  kiện." Cả hai truyền thống qua khảo sát cố gắng đẻ tìm sự thật, những sự kiện. Vì thế cho nên tôi nhận thức rõ rằng không có sự mâu thuẩn. Cung cách của khoa học về tiếp cận, khảo sát, là để giữ một thái độ hoài nghi. Phật Giáo giống y như vậy.

Thực Hiện Một Sự Phân Biệt Giữa Khoa Học Phật Giáo, Triết Học Phật Giáo, Và Tín Ngưỡng Phật Giáo

Vì cuộc gặp gở và hội nghị của chúng ta với những nhà khoa học, một số người đã dùng những chữ: "Cuộc gặp gở của khoa học và Phật Giáo," nhưng điều này là sai lầm. Chúng ta không thảo luận với các nhà khoa học về Phật Giáo, mà chỉ về khoa học Phật Giáo. Vì thế tôi đã thực hiện một sự phân biệt giữa khoa học Phật Giáo [khoa học đến từ kinh luận Phật Giáo], triết lý đến từ kinh luận Phật Giáo, và Phật Giáo. Vì thế Phật Giáo là cho những người Phật tử; nhưng khoa học Phật Giáotriết học Phật Giáophổ thông.

Tôi cảm thấy rằng đã từng có một loại gặp gở nào đó của Đông và Tây. Những nhà khoa học hàng đầu của phương Tây bây giờ đang thật sự chú ý nhiều đến giá trị của việc rèn luyện tâm thức, bởi vì điều này rất quan trọng và rất liên hệ đến sức khỏe của chúng ta, cho dù cho xã hội, gia đình hay cá nhân. Giống như Đại học Wisconsin, dưới sự lãnh đạo của Richard Davidson. Ông đã tiến hành một số chương trình về rèn luyện tâm thức, những thứ như thế này; và cũng như Đại học Stanford, vài năm gần đây. Tôi vừa thăm viếng họ. Tất cả những sự thí nghiệm của họ là sự nghiên cứu thật tuyệt vời. Và rồi thì Đại học Emory. Vì vậy, giống như thế, những thứ này không liên hệ gì với tôn giáo. Nó chỉ đơn giản rút ra những thông tin từ kinh luận Phật Giáo để sử dụng như một phương pháp khoa học để rèn luyện tâm thức, để làm lớn mạnh những phẩm chất tốt đẹp của tâm thức chúng ta [như bi mẫn và tình cảm] đến từ những bà mẹ của chúng ta.

Cho nên, giống như thế, tôi nghĩ rằng đấy là vị trí thích đáng cho Đông và Tây gặp gở. Đấy là cảm nhận của tôi. Không có tôn giáo, chỉ khoa học.

Ẩn Tâm Lộ Wednesday, December 17, 2014

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34607)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32217)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30427)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30694)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21036)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20215)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19448)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24401)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30704)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15701)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27817)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19782)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15584)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23273)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23594)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17547)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15708)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21923)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38049)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22211)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23274)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21371)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28434)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32588)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25215)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34713)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22978)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27744)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31335)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13620)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25226)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27861)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22129)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20762)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22231)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27174)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24172)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21942)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14727)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23189)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24044)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21153)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14220)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19953)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22530)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14090)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28071)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22854)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28230)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 11008)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28528)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31596)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26222)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14988)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28054)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7454)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25391)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20718)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21147)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12271)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant