Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sự Truyền Thừa Từ Viện Nghiên Cứu Phật Giáo Trung Hoa Đến Học Viện Phật Giáo Pháp Cổ

19 Tháng Tư 201503:33(Xem: 7656)
Sự Truyền Thừa Từ Viện Nghiên Cứu Phật Giáo Trung Hoa Đến Học Viện Phật Giáo Pháp Cổ

SỰ TRUYỀN THỪA TỪ VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT GIÁO TRUNG HOA 
ĐẾN HỌC VIỆN PHẬT GIÁO PHÁP CỔ

Thích Giải Hiền
Giảng viên Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội
Hội trưởng Hội Sự Nghiệp Từ Thiện Minh Đức
(Dịch từ bài phát biểu của thượng tọa Huệ Mẫn – 
Hiệu trưởng học viện Phật Giáo Pháp Cổ)

Dấu ấn làm giáo dục của giới Phật Giáo đương đại

Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại họcTrung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” (năm 1912 chính phủ Dân Quốc thành lập đổi tên thành Đại Học Bắc Kinh) năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.

Trước năm 1920, Đại họcTrung Quốc đều là dân lập như Đại học Đông Ngô, Đại học Tế Lỗ, Đại học Saint Jonhs. Theo tư liệu thống kê vào lúc đó trên 80% sinh viên đều theo học tại các trường Đại học do giáo hội Cơ Đốc giáo (đạo Chúa và đạo Tin Lành) thành lập.

Sau năm 1920, các trường Đại học công lập như Đại học Đông Nam, Đại học Giao Thông, Đại học Quảng Đông, Đại học Thanh Hoa lần lượt được thành lậpảnh hưởng của trường đại học công lập cũng được lớn mạnh dần. Năm 1929, chính phủ công bố quy trình quy mô đại học và luật tổ chức đại học, yêu cầu đưa tất cả các trường đại học dân lập vào hệ thống quản lý pháp luật, các điều kiện thành lập đại học tư thục đều có quy định hạn chế. Do vậy, vào thời đó nhân duyên để giới Phật Giáo thành lập trường Đại học không thể hội đủ được.

Năm 1949, sau cuộc nội chiến Quốc Cộng, chính phủ Dân Quốc dời ra đảo Đài Loan, do kinh nghiệm đối phó với các phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên trước đó ở đại lục nên trên phương diện chính sách đã tăng cường quản lýhạn chế việc thành lập các trường Đại học tư thục.

Năm 1974, chính phủ ban bố luật Đại học tư thục quy định tất cả các trường Đại học tư thục đều phải đăng kí thành “tài đoàn pháp nhân” (hình thức sở hữu tập thể). Thập niên 70, Đài Loan đối diện với những thử thách của cuộc khủng hoảng dầu mỏ trên thế giới, những nhu cầu bức thiết về đội ngũ nhân tài kỷ luật cao của các công ty, xí nghiệp đã làm cho những chính sách hạn chế việc xin thành lập trường tư thục kéo dài suốt 13 năm phải được thay đổi.

Từ năm 1985 bắt đầu mở cửa lại nhưng chỉ cho phép các học viện kỹ thuật công nghệ, y khoa và kỹ thuật nghề. Do đó, giới Phật Giáo thành lập Học viện công nghệ Hoa Phạm (chiêu sinh năm 1990 đến năm 1997 đổi thành Đại học Hoa Phạm). Học viện Y Khoa Từ Tế (năm 1994 chiêu sinh, đến năm 2000 đổi thành Đại học Từ Tế). Sau đó, chính phủ tiếp tục mở cửa cho phép thành lập học viện tư thục xã hội nhân văn nên Học viện quản lý Nam Hoa (chiêu sinh năm 1996, năm 1999 đổi thành Đại học Nam Hoa). Học viện xã hội nhân văn Huyền Trang (chiêu sinh năm 1997, năm 2004 đổi thành Đại học Huyền Trang ra đời). Năm 1998, Học viện xã hội nhân văn Pháp Cổ được thành lập cho đến Học viện xã hội nhân văn Phật Quang (chiêu sinh năm 2000, năm 2006 đổi thành Đại học Phật Quang) được thành lập tạo thành làn sóng xây dựng Đại học tư thục trong giới Phật Giáo.

Học viện nghiên cứu tu tập Tôn Giáo

Gần mấy chục năm nay tại Đài Loan có 130 cơ sở gồm: Phật học viện, Chủng viện, Viện thần học Tin Lành, Viện Nhất Quán đạo được Bộ Nội Chính Đài Loan cấp phép thành lập và chiêu sinh nhưng tất cả đều không được đưa vào hệ thống giáo dục thuộc bộ giáo dục quản lý và văn bằng cũng không được bộ giáo dục công nhận vì thuộc sự quản lý của Bộ Nội Chính. Do đó, đã tạo ra rất nhiều trở ngại cho sự phát triển giáo dục Tôn giáo tại Đài Loan (trừ hệ thống các đại học tư thục do tôn giáo lập thuộc bộ giáo dục quản lý thì hệ thống văn bằng đều được bộ giáo dục công nhận).

Một điều thay đổi to lớn là cuối năm 2000 tại hội nghị bàn về những vấn đề liên quan đến giáo dục Tôn giáo đã quyết định dưới những điều kiện nhất định sẽ chấp thuận cho học viện Phật Giáo, chủng viện Thiên Chúa giáo và viện thần học Tin Lành cùng một số cơ sở nghiên cứu tu tập tôn giáo trực thuộc hệ thống giáo dục Đại học. Tháng 3 năm 2004, viện lập pháp (Quốc hội) đã thông qua bộ luật trường tư thục. Điều 9 chấp thuận việc thành lập các khoa, viện nghiên cứu và học viện Tôn giáo với mục đích đa nguyên nghiên cứu về học thuật Tôn giáo. Hiện nay có 9 trường Đại học có các khoa, viện tôn giáo học là Đại học Phụ Nhân (1988), Đại học Chân Lý (1996), Đại học Huyền Trang (1997), Đại học Chính Trị (1999), Đại học Nam Hoa (2000), Đại học Từ Tế (2000), Đại học Trung Nguyên (2000), Đại học Đông Hải (2001), Đại học Phật Quang (2001) cho phép các trường tư thục hoặc các pháp nhân tôn giáo được thành lập các học viện nghiên cứu tu tập tôn giáo thuần nhất và cấp phát học vị tôn giáo làm nền tảng để bồi dưỡng đào tạo các chức sắc và nhân tài tôn giáo. Đồng thời cho phép các học sinh, sinh viên được quyền tham gia các nghi thức tôn giáoy cứ cho việc mở các học phần và các chuyên ngành về tu tập. Nhờ vậy, việc giáo dục tôn giáo thuần nhấtĐài Loan lại có được một bước ngoặt phát triển mới, có thể kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghiên cứu học thuậtthực tiễn tu tập.

Học viên nghiên cứu tu tập Pháp Cổ, Học viện Phật Giáo Pháp Cổ

Năm 2006, Viện nghiên cứu Phật học Trung Hoa với 25 năm kinh nghiệm giảng dạy, với thành tích giao lưu hợp tác với 15 viện, trường trên thế giớithành tích đào tạo hơn 10 vị sinh viên đạt học vị tiến sĩ đã là học viện đầu tiên gửi hồ sơ đến bộ giáo dục xin thành lập học viện nghiên cứu tu tập Pháp Cổ. Sau đó, theo nghị quyết của hội nghị đề án về phương pháp thành lập học viện nghiên cứu tu tập tôn giáo vào tháng 3 năm 2008 cho phép các khoa viện và học viện nghiên cứu tu tập tôn giáo, học vị và học trình có thể dùng tên gọi thường dùng của các khoa viện đã có mà không nhất thiết phải dùng cụm từ “nghiên cứu tu tập”. Nên ngày 18 tháng 8 năm 2008, Học viện đã đổi tên thành Học viện Phật Giáo Pháp Cổ để tiện trong danh xưng giao lưu quốc tế và trong tên viết tắt của học viện.

Trên phương diện nghiên cứu học thuật, từ đội ngũ giảng viên các bộ môn Phật học Ấn Độ, Phật học Trung QuốcPhật học Tây Tạng dung hợp tinh hoa của Phật Giáo Hán truyền, Phật Giáo Nam truyền và Phật Giáo Tạng truyền mở ra kỉ nguyên mới cho việc nghiên cứutu tập trong Phật Giáo. Đồng thời mở rộng  và xây dựng học trình về công nghệ thông tin trong Phật học thành bộ môn công nghệ thông tin Phật học để bồi dưỡng nhân tài quản lý hệ thống tri thứckinh điển Phật giáo kỹ thuật số. Đồng thời xem trọng việc bồi dưỡng ngữ văn Phật học tiếng Sanskrit , tiếng Ba-li, tiếng Tây Tạng , tăng cường ngoại ngữ Anh văn và  Nhật ngữ  xây dựng bộ môn phiên dịch kinh điển Phật giáo.

Trên phương diện thực tiễn tu tập, có thể kết hợp viện Phật học của đại học Tăng Già Pháp Cổ Sơn cùng với các thời khóa sang tối, thiền định và các khóa tu định kỳ của tằng đoàn  thành các thời khóa thường nhật để tu dưỡng việc thực tập trên phương diện tu tập . Đồng thời kết hợp các nguồn tài nguyên và cơ sở của tổ chức giáo dục Phật giáo thế giới Pháp Cổ Sơn để tiến hành việc thực tập tu thiền, lễ nghihoằng pháp trên phương diện lý luậnthực hành khảo sát sự diễn biến của lịch sử để thành lậpxây dựng các chương trình đào tạo phát triển việc nghiên cứu dung hợp với tu tập kết hợp giữa truyền thốnghiện đại tạo thành một tác phong học tập và nghiên cứu của Pháp Cổ .

Trong tương lai, Học viện Phật Giáo Pháp Cổ có thể kết hợp với Học viện xã hội nhân văn Pháp đang trong quá trình xây dựng để tạo thành một môi trường giáo dục và học tập đầy đủ tri thúc Phật Pháp và thế học giúp cho  sinh viên có thể hỗ trương trong việc chọn các học phần  vượt lĩnh vực và học hai văn bằng để đào tạo một đội ngũ nhân tài đầy đủ năng lực nghiên cứu tu tập Phật học và bản lĩnh chỉnh hợp tri thức khoa học tạo nên một đội ngũ nhân lực phục vụ xã hội với tinh thần tôn giáo hoàn bị.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14644)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14629)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14064)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14948)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16563)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29896)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16223)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15540)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14890)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14878)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17887)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15576)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38676)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26728)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39664)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50767)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38750)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35051)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18309)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16473)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42408)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39246)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35617)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17463)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46537)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17156)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28500)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19001)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17596)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17115)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17556)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16535)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16889)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30845)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16943)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18503)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18459)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17388)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18170)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17078)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23497)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16991)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17465)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17672)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17066)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15740)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18039)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17436)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17213)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29534)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27730)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18182)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16118)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15373)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23039)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14838)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55124)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14205)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13256)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14189)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant