Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sự Truyền Thừa Từ Viện Nghiên Cứu Phật Giáo Trung Hoa Đến Học Viện Phật Giáo Pháp Cổ

19 Tháng Tư 201503:33(Xem: 7703)
Sự Truyền Thừa Từ Viện Nghiên Cứu Phật Giáo Trung Hoa Đến Học Viện Phật Giáo Pháp Cổ

SỰ TRUYỀN THỪA TỪ VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT GIÁO TRUNG HOA 
ĐẾN HỌC VIỆN PHẬT GIÁO PHÁP CỔ

Thích Giải Hiền
Giảng viên Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội
Hội trưởng Hội Sự Nghiệp Từ Thiện Minh Đức
(Dịch từ bài phát biểu của thượng tọa Huệ Mẫn – 
Hiệu trưởng học viện Phật Giáo Pháp Cổ)

Dấu ấn làm giáo dục của giới Phật Giáo đương đại

Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại họcTrung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” (năm 1912 chính phủ Dân Quốc thành lập đổi tên thành Đại Học Bắc Kinh) năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.

Trước năm 1920, Đại họcTrung Quốc đều là dân lập như Đại học Đông Ngô, Đại học Tế Lỗ, Đại học Saint Jonhs. Theo tư liệu thống kê vào lúc đó trên 80% sinh viên đều theo học tại các trường Đại học do giáo hội Cơ Đốc giáo (đạo Chúa và đạo Tin Lành) thành lập.

Sau năm 1920, các trường Đại học công lập như Đại học Đông Nam, Đại học Giao Thông, Đại học Quảng Đông, Đại học Thanh Hoa lần lượt được thành lậpảnh hưởng của trường đại học công lập cũng được lớn mạnh dần. Năm 1929, chính phủ công bố quy trình quy mô đại học và luật tổ chức đại học, yêu cầu đưa tất cả các trường đại học dân lập vào hệ thống quản lý pháp luật, các điều kiện thành lập đại học tư thục đều có quy định hạn chế. Do vậy, vào thời đó nhân duyên để giới Phật Giáo thành lập trường Đại học không thể hội đủ được.

Năm 1949, sau cuộc nội chiến Quốc Cộng, chính phủ Dân Quốc dời ra đảo Đài Loan, do kinh nghiệm đối phó với các phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên trước đó ở đại lục nên trên phương diện chính sách đã tăng cường quản lýhạn chế việc thành lập các trường Đại học tư thục.

Năm 1974, chính phủ ban bố luật Đại học tư thục quy định tất cả các trường Đại học tư thục đều phải đăng kí thành “tài đoàn pháp nhân” (hình thức sở hữu tập thể). Thập niên 70, Đài Loan đối diện với những thử thách của cuộc khủng hoảng dầu mỏ trên thế giới, những nhu cầu bức thiết về đội ngũ nhân tài kỷ luật cao của các công ty, xí nghiệp đã làm cho những chính sách hạn chế việc xin thành lập trường tư thục kéo dài suốt 13 năm phải được thay đổi.

Từ năm 1985 bắt đầu mở cửa lại nhưng chỉ cho phép các học viện kỹ thuật công nghệ, y khoa và kỹ thuật nghề. Do đó, giới Phật Giáo thành lập Học viện công nghệ Hoa Phạm (chiêu sinh năm 1990 đến năm 1997 đổi thành Đại học Hoa Phạm). Học viện Y Khoa Từ Tế (năm 1994 chiêu sinh, đến năm 2000 đổi thành Đại học Từ Tế). Sau đó, chính phủ tiếp tục mở cửa cho phép thành lập học viện tư thục xã hội nhân văn nên Học viện quản lý Nam Hoa (chiêu sinh năm 1996, năm 1999 đổi thành Đại học Nam Hoa). Học viện xã hội nhân văn Huyền Trang (chiêu sinh năm 1997, năm 2004 đổi thành Đại học Huyền Trang ra đời). Năm 1998, Học viện xã hội nhân văn Pháp Cổ được thành lập cho đến Học viện xã hội nhân văn Phật Quang (chiêu sinh năm 2000, năm 2006 đổi thành Đại học Phật Quang) được thành lập tạo thành làn sóng xây dựng Đại học tư thục trong giới Phật Giáo.

Học viện nghiên cứu tu tập Tôn Giáo

Gần mấy chục năm nay tại Đài Loan có 130 cơ sở gồm: Phật học viện, Chủng viện, Viện thần học Tin Lành, Viện Nhất Quán đạo được Bộ Nội Chính Đài Loan cấp phép thành lập và chiêu sinh nhưng tất cả đều không được đưa vào hệ thống giáo dục thuộc bộ giáo dục quản lý và văn bằng cũng không được bộ giáo dục công nhận vì thuộc sự quản lý của Bộ Nội Chính. Do đó, đã tạo ra rất nhiều trở ngại cho sự phát triển giáo dục Tôn giáo tại Đài Loan (trừ hệ thống các đại học tư thục do tôn giáo lập thuộc bộ giáo dục quản lý thì hệ thống văn bằng đều được bộ giáo dục công nhận).

Một điều thay đổi to lớn là cuối năm 2000 tại hội nghị bàn về những vấn đề liên quan đến giáo dục Tôn giáo đã quyết định dưới những điều kiện nhất định sẽ chấp thuận cho học viện Phật Giáo, chủng viện Thiên Chúa giáo và viện thần học Tin Lành cùng một số cơ sở nghiên cứu tu tập tôn giáo trực thuộc hệ thống giáo dục Đại học. Tháng 3 năm 2004, viện lập pháp (Quốc hội) đã thông qua bộ luật trường tư thục. Điều 9 chấp thuận việc thành lập các khoa, viện nghiên cứu và học viện Tôn giáo với mục đích đa nguyên nghiên cứu về học thuật Tôn giáo. Hiện nay có 9 trường Đại học có các khoa, viện tôn giáo học là Đại học Phụ Nhân (1988), Đại học Chân Lý (1996), Đại học Huyền Trang (1997), Đại học Chính Trị (1999), Đại học Nam Hoa (2000), Đại học Từ Tế (2000), Đại học Trung Nguyên (2000), Đại học Đông Hải (2001), Đại học Phật Quang (2001) cho phép các trường tư thục hoặc các pháp nhân tôn giáo được thành lập các học viện nghiên cứu tu tập tôn giáo thuần nhất và cấp phát học vị tôn giáo làm nền tảng để bồi dưỡng đào tạo các chức sắc và nhân tài tôn giáo. Đồng thời cho phép các học sinh, sinh viên được quyền tham gia các nghi thức tôn giáoy cứ cho việc mở các học phần và các chuyên ngành về tu tập. Nhờ vậy, việc giáo dục tôn giáo thuần nhấtĐài Loan lại có được một bước ngoặt phát triển mới, có thể kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghiên cứu học thuậtthực tiễn tu tập.

Học viên nghiên cứu tu tập Pháp Cổ, Học viện Phật Giáo Pháp Cổ

Năm 2006, Viện nghiên cứu Phật học Trung Hoa với 25 năm kinh nghiệm giảng dạy, với thành tích giao lưu hợp tác với 15 viện, trường trên thế giớithành tích đào tạo hơn 10 vị sinh viên đạt học vị tiến sĩ đã là học viện đầu tiên gửi hồ sơ đến bộ giáo dục xin thành lập học viện nghiên cứu tu tập Pháp Cổ. Sau đó, theo nghị quyết của hội nghị đề án về phương pháp thành lập học viện nghiên cứu tu tập tôn giáo vào tháng 3 năm 2008 cho phép các khoa viện và học viện nghiên cứu tu tập tôn giáo, học vị và học trình có thể dùng tên gọi thường dùng của các khoa viện đã có mà không nhất thiết phải dùng cụm từ “nghiên cứu tu tập”. Nên ngày 18 tháng 8 năm 2008, Học viện đã đổi tên thành Học viện Phật Giáo Pháp Cổ để tiện trong danh xưng giao lưu quốc tế và trong tên viết tắt của học viện.

Trên phương diện nghiên cứu học thuật, từ đội ngũ giảng viên các bộ môn Phật học Ấn Độ, Phật học Trung QuốcPhật học Tây Tạng dung hợp tinh hoa của Phật Giáo Hán truyền, Phật Giáo Nam truyền và Phật Giáo Tạng truyền mở ra kỉ nguyên mới cho việc nghiên cứutu tập trong Phật Giáo. Đồng thời mở rộng  và xây dựng học trình về công nghệ thông tin trong Phật học thành bộ môn công nghệ thông tin Phật học để bồi dưỡng nhân tài quản lý hệ thống tri thứckinh điển Phật giáo kỹ thuật số. Đồng thời xem trọng việc bồi dưỡng ngữ văn Phật học tiếng Sanskrit , tiếng Ba-li, tiếng Tây Tạng , tăng cường ngoại ngữ Anh văn và  Nhật ngữ  xây dựng bộ môn phiên dịch kinh điển Phật giáo.

Trên phương diện thực tiễn tu tập, có thể kết hợp viện Phật học của đại học Tăng Già Pháp Cổ Sơn cùng với các thời khóa sang tối, thiền định và các khóa tu định kỳ của tằng đoàn  thành các thời khóa thường nhật để tu dưỡng việc thực tập trên phương diện tu tập . Đồng thời kết hợp các nguồn tài nguyên và cơ sở của tổ chức giáo dục Phật giáo thế giới Pháp Cổ Sơn để tiến hành việc thực tập tu thiền, lễ nghihoằng pháp trên phương diện lý luậnthực hành khảo sát sự diễn biến của lịch sử để thành lậpxây dựng các chương trình đào tạo phát triển việc nghiên cứu dung hợp với tu tập kết hợp giữa truyền thốnghiện đại tạo thành một tác phong học tập và nghiên cứu của Pháp Cổ .

Trong tương lai, Học viện Phật Giáo Pháp Cổ có thể kết hợp với Học viện xã hội nhân văn Pháp đang trong quá trình xây dựng để tạo thành một môi trường giáo dục và học tập đầy đủ tri thúc Phật Pháp và thế học giúp cho  sinh viên có thể hỗ trương trong việc chọn các học phần  vượt lĩnh vực và học hai văn bằng để đào tạo một đội ngũ nhân tài đầy đủ năng lực nghiên cứu tu tập Phật học và bản lĩnh chỉnh hợp tri thức khoa học tạo nên một đội ngũ nhân lực phục vụ xã hội với tinh thần tôn giáo hoàn bị.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32222)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30440)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30706)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21040)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20217)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19449)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24403)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30708)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15706)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27822)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19786)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15587)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23279)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23598)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17550)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15710)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21926)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38053)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22215)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23281)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21384)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28441)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32593)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25217)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34716)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22981)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27748)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31336)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13620)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25230)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27865)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22134)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20763)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22232)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27179)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24174)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21945)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14729)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23199)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24048)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21165)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14221)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19959)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22535)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14091)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28074)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22865)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28234)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 11011)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28531)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31609)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26223)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14997)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28055)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7461)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25396)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20719)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21149)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12274)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11932)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant