Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thấy Mối Liên Hệ Tương Duyên Của Mọi Hiện Tượng

19 Tháng Tư 201504:38(Xem: 9539)
Thấy Mối Liên Hệ Tương Duyên Của Mọi Hiện Tượng

Thấy Mối Liên Hệ Tương Duyên Của Mọi Hiện Tượng


Thực chứng giáo lý duyên khởi

Người thông tuệ hoàn toàn không vướng vào những quan điểm cực đoan.

 

-BUDDHA

 

 

DalailamaBởi vì những hiện tượng dường như, ngay cả đối với những giác quan của chúng ta, tồn tại từ chính chúng, mặc dù chúng không như thế, chúng ta chấp nhận một cách sai lầm quan điểm rằng những hiện tượng hiện hữu một cách cụ thể hơn là chúng thật sự tồn tại.  Trong cách này chúng ta bị đẩy vào những cảm xúc phiền não, tạo nên hạt giống cho sự tàn phá của chính chúng taChúng ta phải tẩy trừ những rắc rối này bằng việc phản chiếu đi quán chiếu lại, trên tính bản nhiên phụ thuộc của mọi thứ.

 

TÁC ĐỘNG CỦA DUYÊN KHỞI

 

Tất cả mọi hiện tượng – hữu ích và tổn hại, nguyên nhânhậu quả, cái này và cái kia – sinh khởi và được thiết lập trong sự nương tựa trên những nhân tố khác.  Như Long Thọ nói trong Tràng Hoa Quý Báu rằng:

 

Khi điều này trở thành, thì điều kia sinh khởi,

Như có ngắn khi có dài,

Qua sự sinh thành điều này, điều kia được sản xuất.

Giống như ánh sáng từ sự sản sinh của ngọn lửa.

 

Trong phạm vi này của phụ thuộc, hữu ích và tổn hại sinh khởi, những hiện tượng vô thường có thể biểu hiện chức năng (và không chỉ là điều bịa đặt của sự tưởng tượng), và nghiệp báo – hành động và hậu quả của chúng – là có thể hiện thực được.  Quý vị là khả thi và tôi là khả thi, chúng ta không chỉ là sự sáng tạo tinh thần.  Bằng sự thông hiểu điều này, quý vị thoát khỏi điều mà Phật Giáo gọi là “cực đoan của hư vô”, đưa đến kết luận sai lầm rằng chỉ vì một hiện tượng không thể tìm thấy sự tồn tại cố hữu (vô tự tính) nên nó hoàn toàn không tồn tại.  Như Long Thọ nói:

 

Vì thấy rằng những hậu quả sinh khởi

Từ những nguyên nhân, người ta thừa nhận những gì xuất hiện

Trong những quy ước của thế gian (tục đế)

không chấp nhận hư vô chủ nghĩa.

 

Có hai cực đoan – khái niệm cường điệu rằng những hiện tượng (vạn pháp) tồn tại dưới năng lực của chính chúng, và sự phủ nhận nhân quả  (nguyên nhân và kết quả) – giống như những hố thẳm mà trong ấy tâm thức của chúng ta có thể rơi xuống, đấy là sự tạo nên những quan điểm tai hại thổi phồng thể trạng của những đối tượng vượt khỏi tính chất tự nhiên thật sự của chúng hay phủ nhận chính sự tồn tại của nhân quả.   Rơi vào hố thẳm cường điệu, chúng ta bị đẩy vào sự thỏa mãn khái niệm về chính chúng ta mà nó phóng đại chúng ta thật sự như thế nào – một sự bất khả chiến bại.  Hay, rơi vào hố thẳm của sự phủ nhận, chúng ta đánh mất quan kiến về giá trị của đạo đức và bị đẩy vào những hành vi xấu xa mà chúng sẽ phá ngầm tương lai của chính chúng ta.

 

Để có thể cân bằng đuyên khởi và tính không, chúng ta cần phải phân biệt giữa sự tồn tại cố hữu và sự tồn tại đơn thuần.  Cũng cần yếu để nhận ra vấn đề khác biệt giữa sự vắng mặt của sự tồn tại cố hữu (vô tự tính) và sự hoàn toàn không tồn tại (hư vô).  Đấy là tại sao khi những đại hiền nhân Phật GiáoẤn Độ dạy về tính không, các ngài đã không sử dụng sự biện luận rằng những hiện tượng là trống không khả năng biểu hiện những chức năng.  Đúng hơn, các ngài nói rằng những hiện tượng là trỗng rỗng sự tồn tại cố hữu (vô tự tính) bởi vì chúng là duyên khởi.  Khi tính không được hiểu trong cách này, cả hai cực đoan được tránh.  Khái niệm cường điệu rằng những hiện tượng tồn tại từ chính chúng được tránh qua sự nhận thức về tính không, và việc phủ nhận sự tồn tại khả năng biểu hiện chức năng được tránh qua việc thấu hiểu rằng những hiện tượngduyên khởi và vì thế không phải không tồn tại một cách hoàn toàn.

 

Như Nguyệt Xứng nói:

 

Luận lý duyên khởi này

Cắt xuyên qua tất cả những mạng lưới của những quan điểm tà kiến.

 

Duyên khởi là lộ trình cho việc hướng đến xóa sạch hai hố  thẳm của những quan điểm sai lầm và những khổ đau kèm theo chúng.

 

TÍNH KHÔNG THỂ DIỄN ĐẠT CỦA CHÂN LÝ

 

Một lần nọ, có một học giả thiếu kinh nghiệm trong một tu học viện ở Lhasa, người đang trong thời điểm khó khăn của tranh luận, không thể đáp trả những thách thức.  Thế là ông ta tuyên bố, đến tất cả mọi người trong tranh luận, rằng ông biết tất cả những câu trả lời nhưng ông ta đang gặp khó khăn để diễn tả bằng ngôn ngữ.  Có thể chúng ta – không biết tính không rõ ràng – có thể chỉ lập lại những lời tuyên bố đã có trong kinh điển Phật Giáo rằng sự toàn thiện của tuệ trí là không thể nhận thức được và không thể diễn tả được và cố gắng mở to mắt đề nhìn sâu tận đáy!  Tuy nhiên, lời tuyên bố này có nghĩa rằng sự thực chứng về tính không là được kinh nghiệm một cách trực tiếp trong thiền quán bất nhị không thể phát biểu được bằng ngôn ngữ; chứ không có nghĩa là tính không thì không thể phản chiếu được và thiền quán được.

 

Khi chúng ta nói, nghe, hay nghĩ về những thuật ngữ như tính không hay chân lý cứu kính, chúng hiện khởi với chúng ta trong một chủ thể và đối tượng riêng biệt – tâm thức ở về một phía và tính không ở một phía khác – trái lại trong thiền quán thậm thâm, chủ thể và đối tượng có một nhiệm vụ; tính khôngtâm thức nhận thức nó giống như nước đổ vào nước, không khác biệt, không thể phân biệt.

 

TƯƠNG TỰ VỚI VỌNG TƯỞNG

 

Sử dụng khí cụ phân tích, quý vị không thể tìm ra một thực thể luân hồi từ đời sống này sang đời sống khác, nhưng điều này không có nghĩa là sự tái sinh hoàn toàn không hiện hữu.  Mặc dù tác nhân, hành động và đối tượng không thể cưỡng lại sự phân tích để đứng vững một cách độc lập, nhưng những hành vi lành mạnh và không lành mạnh để lại những dấu vết (hạt giống nghiệp) của chúng trong tâm thức, và những thứ này sẽ đi đến khai hoa kết trái trong kiếp sống này hay trong một đời sống tương lai.

 

Nếu chúng ta khảo sát một người với luận lý này, người xuất hiện trong một giấc mơ và một người thật sự được thấy khi chúng ta thức dậy, hoàn toàn không có tự ngã cấu thành có thể tìm thấy được trong cả hai người ấy.  Hai người ấy là không thể tìm thấy được một cách bình đẳng dưới sự phân tích như thế, nhưng điều này không có nghĩa rằng không có những con người thật sự hay người trong mộng là một người thật sự.  Sự kiện rằng con người và những đối tượng khác là không thể tìm thấy dưới sự phân tích không có nghĩa rằng những điều ấy không hiện hữu mà rằng chúng không tồn tại trong cung cách bởi năng lực của chính chúng; chúng hiện hữu do bởi những nhân tố khác, tức là lý duyên khởi.  Trong cách này, sự biểu hiện trỗng rỗng dưới năng lực của chính nó đi đến ý nghĩa lệ thuộc trên những thứ khác.

 

Thiền Quán Phản Chiếu

 

Quan tâm:

 

1-    Sự tồn tại cố hữu (tự tính) đã chẳng bao giờ, đang không bao giờ, và sẽ không bao giờ tồn tại.

2-    Tuy thế, chúng ta tưởng tượng rằng nó thật tồn tại và vì thế bị đẩy vào trong những cảm xúc buồn lo.

3-    Chấp ngã: Sự tin tưởng rằng những hiện tượng tồn tại một cách cố hữu là một cực đoan của sự phóng đại (hay tự ý thêm vào), một hố thẳm đáng sợ.

4-    Chấp không: Sự tin tưởng rằng những hiện tượng vô thường (vạn pháp vô thường) không thể biểu hiện chức năng, hay hoạt động như nhân và quả, là một hình thức cực đoan của sự phủ nhận, một hố thẳm đáng sợ khác.

5-    Nhận thức rằng tất cả mọi hiện tượng là trống rỗng sự tồn tại cố hữu do bởi biểu hiện duyên khởi tránh được cả hai cực đoanNhận ra rằng những hiện thượng là duyên sinh tránh cực đoan phủ nhận nguy hiểm; nhận ra rằng chúng là trống không sự tồn tại cố hữu tránh được cực đoan phóng đại nguy hiểm.

 

 

Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma 
Tuệ Uyển chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6942)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
(Xem: 9674)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
(Xem: 23174)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8152)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20585)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19575)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18449)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16305)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15967)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19128)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14346)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9672)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8771)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8237)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8931)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 11023)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9168)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8936)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 7993)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9119)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35679)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8597)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15141)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8736)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15333)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9196)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8872)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9392)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8511)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10333)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7701)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9581)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7550)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17276)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15049)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9543)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20919)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9237)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7191)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17745)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17676)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25861)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7853)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9952)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7293)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9687)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8167)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9134)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7434)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8823)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7949)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8384)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7562)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8757)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8188)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8910)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7325)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 14034)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7140)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
(Xem: 10392)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant