Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vấn Đề Chủng Tánh/ Giai Cấp Tối Thắng Qua Văn Hệ Nikaya và A Hàm

01 Tháng Bảy 201515:15(Xem: 6223)
Vấn Đề Chủng Tánh/ Giai Cấp Tối Thắng Qua Văn Hệ Nikaya và A Hàm
VỀ VẤN ĐỀ CHỦNG TÁNH/GIAI CẤP TỐI THẮNG
QUA VĂN HỆ NIKĀYA VÀ A-HÀM

Phước Nguyên
*******

I.  Ý NGHĨA TỪ CHỦNG TÁNH TRONG KINH ĐIỂN ĐẠI THỪA
Trước khi truy nguyên ý nghĩa từ chúng tánh trong văn hệ Nikāya Pāli và A-hàm, chúng ta đi qua ý nghĩa của nó trong Kinh điển Đại-thừa, việc làm này cũng là điều thường thấy trong cách thức trình bày, để có thể có được quan điểm xuyên suốt về vấn đề, mà không bị vướng mắc ở nơi những phạm trù tư tưởng hay khái niệm. Ở đây, chúng ta tạm mượn kinh Nhập Lăng-già, thuộc kinh điển Đại-thừa, để làm cơ sở khi nói về ý nghĩa này.
Kinh Saddharmalakāvatārasūtram, Hán dịch tương đương: Đại Thừa Nhập Lăng Già kinh[1], đức Thế Tôn dạy về chủng tánh như sau:
pañca abhisamayagotrāi ... śrāvakayānābhisamayagotra, pratyekabuddha-, tathāgata, anitya-taikataragotra agotram[2]”: “Phật y trên năm hạng chủng tánhthành lập năm thừa[3]: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
Các hữu tình đã được nói là bản lai có năm chủng tánh khác nhau do đó cần phải xác định có chủng tử pháp nhĩ, không phát sinh do bởi huân tập. Tại sao ? Nhập Lăng-già 2[4] nói rõ, về chủng tánh của năm thừa do hiện chứng:
Punar mahāmate pañcābhisamayagotrāi. katamāni pañca? yad uta śrāvakayānābhi-samayagotra, pratyekabuddhayāna-, tathāgatayāna-, aniyataikataragotra, agotra”:  Này Đại Huệ, có năm chủng tánh được hiện chứng. Đó là, chủng tánh hiện chứng Thanh văn thừa, chủng tánh hiện chứng Độc giác thừa, chủng tánh hiện chứng Như lai thừa, chủng tánh bất định, và không chủng tánh.
Giải thích vấn đề này của kinh Lăng già ta có thể dẫn ở Vô thượng y kinh 1[5], hay Thiện dũng mãnh bát-nhã 1 tức Đại Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh, quyển 593, hội thứ 16[6]Hạng chủng tánh bất định, là không nhất định sẽ chứng thừa nào, mà tùy theo điều kiện ban đầu; gặp nhân duyên với thừa nào thì phát tâmthành tựu cứu cánh trong thừa đó. Hạng vô chủng tánh, mà kinh gọi là nhất-xiển-đề, là hạng không có chủng tánh Niết-bàn”.
Cũng theo kinh Lăng-già: “Nhất-xiển-đề là hạng không có Niết-bàn tánh. Hạng này không có tín tâm để tin rằng có sự giải thoát nên không hề có ý hướng về sự nhập Niết-bàn”[7].
Nhóm chủng tánh này cũng được chia thành hai nhánh: Nhánh đoạn thiện căn do không có một chút gốc rễ thiện gì để có thể tin tưởnggiải thoát và Niết-bàn. Nhánh thứ hai, Bồ-tát do đại bi nên vĩnh viễn không hề có ý hướng Niết-bàn[8].
Như vậy, tóm lại các loại chủng tánh được kể trong kinh Lăng-già gồm: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
Ngoài ý nghĩa từ chủng tánh được dùng ở đây, để chỉ cho năm loại chủng tánh đã kể trên, trong văn hệ Pāli và A-hàm từ Sanskrit gotra: chủng tánh, Pāli gọi là gotta: chủng tộc còn được dùng với ý nghĩa khác, tức để chỉ cho bốn chủng tánh đó là: Sát-lị, Bà-la-môn, Cư sỹ và Thủ-đà-la[9].

II. CHỦNG TÁNH/GIAI CẤP NÀO LÀ TỐI THẮNG?
Một thời, khi Thế Tôn cư trú tại thành Xá-vệ, trong vườn Thanh Tín, giảng đường Lộc Mẫu, cùng đại chúng Tỳ-kheo. Bấy giờ ngài nói có bốn chủng tánh như sau:
Này Bà-tất-tra, có bốn chủng tánh, trong đó có cả người thiện lẫn người ác; có kẻ được người trí khen, cũng có kể bị người trí chê. Bốn chủng tánh ấy là: Sátlị, Bà-la-môn, Cư sỹ, Thủ-đà-la”[10].
Và khi đề cập đến chủng tánh hay chủng tộc nào là tối thượng trong bốn chủng tánh trên, đức Thế Tôn đã từng dạy:
 “Khattiyo seṭṭho janetasmi, ye gottapaisārino”[11]:
“Những ai tin vào chủng tộc, thì Sát-lợi là tối tôn”.
Từ chủng tộc Pāli gọi là gotta, nó cũng được hiểu là giai cấp, tầng lớp, tầng bậc, từ Sanskrit tương đương ở đây là gotra: chủng tánh, ở đây cũng hiểu là chủng tử (bīja), là giới (dhātu), là tánh (prakti).
Như vậy, chúng ta lần lượt đi vào một số kinh văn, để hiểu rõ hơn về vấn đề Thế Tôn dạy về chủng tánh hay giai cấp tối thượng như thế nào.
*Kinh Tiu Duyên[12]:
Lúc bấy giờ, Thế Tôn cư trú tại Xá-vệ, trong vườn Thanh Tín, giảng đường Lộc Mẫu, cùng đại chúng Tỳ-kheo một nghìn hai trăm năm mươi vị.
Tại đây, Thế Tôn nói về giai cấp bậc nhất, qua bài kệ sau:
"Trong đời, Sát-lị nhất
Với ai y chủng tánh
Minh Hành thành đầy đủ
Bậc nhất trong Trời-Người"[13]Nguyên văn ở trong Đại Tạng Kinh 1, Trường A-hàm có khác biệt một chút như vầy:
“ 生中剎 利勝
能捨種姓去"[14]:
“Trong đời Sát-lị là nhất;
Ai hay rời bỏ chủng tánh.”
Câu này Pāli có tương đương: “khattiyo seṭṭho janetasmi, ye gottapaisārino”: với những ai y chỉ chủng tánh (giai cấp), sát-lị là bậc nhất trong loài thọ sinh. 
Bản Hán có lẽ đọc là gottanissārino: hiểu thành 能捨種姓去[15]: những ai rời bỏ chủng tánh. Cách hiểu này không phù hợp với nội dung toàn kinh và đoạn dịch Hán bài kệ tương tự trong kinh A-ma-trú sẽ dẫn ở bên dưới, cũng ở Trường A-hàm. Nên căn cứ theo đây có thể tạm hiệu chỉnh lại là: Với ai y chủng tánh. Như vậy, phù hợp với Pāli và toàn bộ tư tưởng với những kinh văn tương đương.
*Kinh A-ma-trú[16]
Một thời, đức Thế-Tôn du hành nước Câu-tát-la, cùng đại chúng Tỳ-kheo, rồi đến Y-xa-năng-già-la, thôn của một người Bà-la-môn ở Câu-tát-la. Ngài nghỉ đêm tại rừng Y-xa. Tại đây, có một vị Phạm Thiên tự mình nói bài kệ rằng:
Trong đời, Sát-lị nhất,
Với ai y chủng tánh
Minh, Hành thảy đầy đủ,
Tối thắng giữa Trời Người”[17].
Bấy giờ, đức Thế-Tôn bảo Ma nạp đệ tử 摩納弟子 (Pāli. avo antevāsi) tức thiếu niên đệ tử người học trò hầu cận trẻ tuổi rằng:
“Phạm Thiên nói bài kệ này, thật là nói khéo chớ không phải không khéo. Ta công nhận như vậy. Vì sao? Nay, như Ta, Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chính Giác, cũng nói nghĩa đó:
Trong đời, Sát-lị nhất,
Với ai y chủng tánh.
Minh, Hành thảy đầy đủ,
Tối thắng giữa Trời Người"[18]*Kinh Khởi Thế Nhân Bổn, Trường Bộ Kinh[19].
Một thời Thế Tôn trú tại Xá-vệ, Thành Tín Viên lâm, ở lầu của Lộc Mẫu Giảng đường. Tại đây, Thế Tôn dạy Vāsettha về giai cấp bậc nhất như sau:
"Này Vāsettha, vì rằng nếu có ai trong bốn giai cấp là một vị Tỷ kheo, một vị A la hán, các lậu hoặc đã được tận diệt, phạm hạnh đã lập vững, những việc phải làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành tựu mục đích tối thượng, hữu kiết sử đã diệt, nhờ chánh trí đã được giải thoát, vị ấy sẽ được xem là tối thượng so sánh với bốn giai cấp, vì xứng với Pháp, không phải không xứng với Pháp.
"Này Vāsettha, bài kệ sau đây được Phạm thiên Sanamkumāra[20] tuyên thuyết:
Chúng sanh tin giai cấp,
Sát đế lỵ tối thắng.
Ai đủ cả trí, đức,
Tối thắng giữa Nhân, Thiên.
“Này Vāsettha, bài kệ này được Phạm thiên Sanamkumāra, khéo hát chớ không phải vụng hát, khéo nói chớ không phải vụng nói, đầy đủ ý nghĩa chớ không phải không đầy đủ, được Ta chấp nhận.
“Này Vāsettha, Ta cũng nói như sau:
Chúng sanh tin giai cấp,
Sát đế lỵ tối thắng.
Ai đủ cả trí, đức,
Tối thắng giữa Nhân, Thiên."
Như vậy, qua kinh Khởi Thế Nhân Bổn thuộc văn hệ Pāli, Thế Tôn đã xác chứng việc Phạm thiên Sanamkumāra tuyên thuyết về giai cấp tối thượng bằng cách nói cho Vāsettha nghe bài kệ giống như bài kệ của vị Phạm Thiên kia.
*Kinh Bà La Bà Đường[21]Một thời, Thế Tôn du hóa nước Xá-vệ, trú tại Đông viên, trong giảng đường Lộc tử mẫu. Lúc ấy Thế Tôn dạy cho Bà-tư-tra như sau:
"Này Bà-tư-tra, ở đây có ba giai cấp khiến cho không phải tất cả mọi người cùng tranh luận với nhau, thiện và bất thiện lẫn lộn, được các bậc Thánh khen ngợi hoặc không khen ngợi. Thế nào là ba? Đó là: dòng Sát-lợi, dòng Phạm chí, dòng Cư sĩ.
[...] 
“Này Bà-tư-tra, như vậy, Ta đã phân biệt rộng rãi về ba chủng tánh này vậy.
“Phạm thiên đế chúa nói bài kệ:
Loài hai chân, Sát-lợi tối tôn,
Đấy là chủ trương có chủng tộc.
Những ai cầu học Minh và Hạnh,
Vị ấy, Thiên, Nhân đều tán thán.
“Này Bà-tư-tra, Phạm thiên đế chúa khéo nói bài kệ này chứ không phải không khéo, khéo ca ngơi, phúng tụng chứ không phải không khéo, khéo ngâm vịnh và nói, chứ không phải không khéo, nói như thế này:
Loài hai chân, Sát-lợi tối tôn,
Đấy là chủ trương có chủng tộc.
Những ai cầu học Minh và Hạnh,
Vị ấy, Thiên, Nhân đều tán thán.
“Vì sao? Vì Ta cũng nói như vậy:
Loài hai chân, Sát-lợi tối tôn,
Đấy là chủ trương có chủng tộc.
Những ai cầu học Minh và Hạnh,
Vị ấy, Thiên, Nhân đều tán thán.”[22]
Như vậy, qua kinh này Thế Tôn cũng dạy rằng, chủng tộc Sát-lợi là tối tôn trong các chủng tộc.
*Kinh Phạm Chúa[23]Một thời, Đức Thế Tôndưới gốc cây bồ-đề, bên sông Ni-liên-thiền, tại tụ lạc Uất-bề-la, khi ấy ngài thành đạo chưa bao lâu.
Bấy giờ, có Phạm thiên vương, chúa của thế giới Ta-bà, với sắc thân tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu kính lễ dưới chân Thế Tôn, rồi ngồi lui qua một bên và nói kệ:
Ở trong các chủng tánh,
Lưỡng túc tôn Sát-lợi;
Bậc Minh Hạnh đầy đủ,
Tối thắng trong loài người”[24].
Bấy giờ Thế-Tôn ngài đáp lại như sau: Đúng vậy, Phạm thiên! Đúng vậy, Phạm thiên!
Ở trong các chủng tánh,
Lưỡng túc tôn Sát-lợi;
Bậc Minh Hạnh đầy đủ,
Tối thắng trong loài người."[25]Trong bài kệ có câu: “Ở trong các chủng tánh, lưỡng túc tôn Sát-lợi”, Pāli tương đương của câu này: “khattiyo seṭṭho janetasmi, ye gottapaisārino”[26]: những ai tin vào chủng tộc, thì Sát-lợi là tối tôn.

III. KẾT LUẬN
Như vậy, qua vài ý tưởng viện dẫn từ kinh văn ở trên, chúng ta thấy rằng, đức Thế-Tôn dạy rằng: giai cấp Sát-lợi là chủng tánh tối tôn hay giai cấp bậc nhất trong bốn giai cấp.
Nhưng vấn đề này không nhất thiết cố định, tùy vào căn cơ, quốc độ hay thời điểm mà Thế Tôn sẽ diễn thuyết sai biệt. Cụ thể như ở trong  Kinh Trung A-hàm, Kinh Nhất Thiết Trí, số 212, Đức Thế Tôn dạy rằng: “Có bốn chủng tộc này, Sát-lợi, Phạm chí, Cư sĩ và Công sư, chúng bình đẳng đối với đoạn, không hơn kém, không sai biệt đối với đoạn vậy"[27].
Và ở nơi khác, khi đức Đức Thế Tôn đang du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc,  lúc bấy giờ Ngài nói rằng: “Này Ma-nạp, trước kia ngươi khen ngợi sự học hỏi, sau đó ngươi khen ngợi sự trì giới. Này Ma-nạp, như vậy Ta nói bốn chủng tánh thảy đều thanh tịnh, với sự giảng giải hiển thị, ngươi cũng nói bốn chủng tánh này đều thanh tịnh với sự giảng giải hiển thị.”[28]Nếu thấy được phương tiện thiện xảo[29] trong việc thuyết phápđức Thế Tôn đã thi thiết kiến lập như vậy, chúng ta sẽ vượt ra khỏi được những cực đoan, chấp thủvững chắc trên trung đạo, trong lộ trình thể nhập Thánh đạo vô lậu, giải thoát sinh tử.
 
[1] Lăng-già, Bản 10 quyển; T16n0671, tr.526c8.
[2] Lakāvatāra, Nanjio tr. 64.
[3] Thừa Skt. yāna. Cần phân biệt: yāna: “cỗ xe” với yana, “một con đường”.
[4] T16n671, tr. 526c8. Cf. Skt. Lap. 63.
[5] Dẫn theo Thuật ký, ghi là Đại16, số 669, chưa tìm thấy số trang.
[6] T7n220, tr. 1066a29; Skt. Suvikrāntavikrāmaparipcchā.
[7] Ibid., tr. 527a29.
[8] Skt. ibid., tr. 66: icchantika.
[9] Cf. Trường, Tiểu Duyên Kinh, Đại 1, tr. 37a.
[10] Ibid., tr. 37a.
[11] Pāli, S.6.11. Sanakumāra.
[12] Trường A-hàm, Đại 1, tr. 36b29.
[13] Ibid., tr. 39a.
[14] Ibid., tr. 39a.
[15] Ibid., tr. 39a.
[16] Trường A-hàm, Đại 1, tr. 83b.
[17] Đại 1, tr. 83b.
[18] Đại 1, tr. 83b.
[19] Digha Nikaya, Agganna sutta 27.
[20] Hán: Thường Đồng hình Phạm thiên.
[21] Cf. Kinh Trung A-hàm, kinh 154. Pali tương đương: Agaññasuttanta. Bản Hán, quyển 39. Pāli, D.27, Hán, biệt dịch, Trường A-hàm 5, “Kinh Tiểu Duyên”; No.10 Phật Thuyết Bạch Y Kim Tràng Nhị Bà-la-môn Duyên Khởi Kinh, Tống, Thi Hộ dịch.
[22] Kinh Trung A-hàm, kinh 154. Pali tương đương: Agaññasuttanta.
[23] Tạp A-hàm, Kinh 1190, Pāli, S.6.11. Sanakumāra. Biệt dịch, №100 (103).
[24] Tạp A-hàm, Kinh 1190, Pāli, S.6.11.
[25] Tạp A-hàm, Kinh 1190, Pāli, S.6.11.
[26] Pāli, S.6.11. Sanakumāra
[27] Đại 1, tr. 648a.
[28] Cf. Kinh Trung A-hàm kinh 151: Kinh Phạm chí A-nhiếp-hòa. Tương đương Pāli M.93 Assalāyana-sutta. Hán, biệt dịch No.71 Phạm Chí An-ba-la-diên Vấn Chủng Tôn Kinh, Đông Tấn, Trúc Đàm-vô-lan dịch.
[29] Skt. Upāyakauśalya , Hán phiên âm âu-hòa câu-xá-la, upāya: chỉ sự tiếp cận, động từ căn I, có nghĩa đi hay đến, và upa, tiền tố chỉ hướng đến gần, hay vị trí ở gần hay ở trên; kauśalya, mà gốc là do hình dung từ kuśala: thiện, lành, tốt đẹp hay khéo léo, Hán dịch là “thắng trí,” là chỉ nghĩa trí tuệ nhạy bén. Cf. Duy ma kinh nghĩa sớ, Gia Tường Cát Tạng, T38 N1781, tr. 931b18: 梵音稱漚和拘舍羅。此云方便勝智.
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21941)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 8041)
Thiều Chửu và Đoàn Trung Còn đều không giải thích được lý do tại sao chữ VẠN quay theo chiều này thì cát tường, quay theo chiều ngược lại thì nguy hại... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 7721)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáotuân theo tinh thần bất bạo động... Tác giả: Charles K. Fink; Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 8831)
Đức Phật đã thuyết giảng như thế nào về sự đau đớn? Ngài bảo rằng sự bất an của chúng ta gồm có hai thể dạng khác nhau... Ajahn Brahmavamso, Hoang Phong dịch
(Xem: 7136)
Không là một khái niệm xuất hiện khá sớm trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, trải dài đến Phật giáo Đại thừa... Thích Nữ Nhuận Bình
(Xem: 9347)
Tác phẩm “Tuệ Sanh Định” là một trong số ít tác phẩm được viết bởi Bậc Thầy Maha Boowa (Bhikkhu Ñanasampanno)... Nhất Như dịch Việt
(Xem: 8789)
Nguyên tác tiếng Anh của Darwinism, Buddhism and Christanity được đăng trong tạp chí The Maha Bodhi, Sri Lanka, Tập 82 Dec 1974 Thích Nữ Liên Hòa dịch
(Xem: 10236)
Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cật thị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấy cho đại chúng xem... Toàn Không
(Xem: 8212)
Chân Nguyên kết luận: “Đức Phật Thích Ca đã tự chính mình đem thánh hiệu mà dạy cho hai người già, điều đó không còn có thể nghi ngờ gì nữa”... Thích Phước An
(Xem: 9547)
Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu... Mai Thục
(Xem: 6967)
Mũi tên biểu trưng cho một sự đau đớn trên thân xác, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây ra một sự hoảng sợ trong tâm thần... Hoang Phong
(Xem: 8006)
Yết-ma, được phiên âm từ karmam[1] của tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự tác pháp”, được định nghĩa: “Vạn sự do tư thành biện cố”... Thích Minh Cảnh
(Xem: 8376)
Quảng bản kinh được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát NhãLợi Ngôn tái dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần chót là có tất cả 7 bản... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 8638)
Bồ tát hành đạo bắt đầu từ giữa lòng xã hội nên sự tiếp cận với mọi thống khổ nhân sinh là lẽ tất nhiên... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8402)
Thiền sư Vĩnh Bình Đạo Nguyên, hoặc Đạo Nguyên Hy Huyền (1200-1253), là vị tổ sáng lập ra dòng Tào ĐộngNhật Bản... Ngọc Bảo dịch
(Xem: 8521)
Một cách vắn tắt, đó là vị trí của nữ giới trong Phật Giáo. Người phụ nữ xứng đáng có một chỗ đứng danh dự ngang hàng với nam giới... Piyadassi Mahathera; Dịch giả: Phạm Kim Khánh
(Xem: 11256)
Người vợ cần quán chiếu tâm mình thật cẩn thận trong một thời gian và từ đó đi đến quyết định đúng cho cuộc đời của mình... Mithra Wettimuny; Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Xem: 8565)
Đức Thế Tôn là người đầu tiên đòi quyền lợi cho giới nữ, đưa vị trí giới nữ ngang bằng nam giới... Thích Hạnh Bình
(Xem: 10698)
Hội Phật giáo Trung Quốc ước tính rằng hiện có khoảng 180,000 tăng niTrung Quốc... Nguyên tác: Tịnh Nhân; Thích Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 9463)
Ngài đã gọi dứt khoát, rõ ràng “tự phá thai mình” là một tội, phải chịu quả báo hết sức nặng nề và kéo dài... Chân Minh
(Xem: 9267)
Làm thế nào để những cha mẹ Phật tử có thể dạy tốt lời dạy của Phật giáo cho con em của họ?... Helmuth Kalr; Thích Minh Diệu
(Xem: 9574)
Rồi lần lượt không bao lâu, khi Ðức Phật đúng 80 tuổi đời, 45 tuổi đạo, Ngài cũng giã từ Tứ chúng để an hưởng quả vị Vô Dư Niết-bàn... Thích Thiện Minh
(Xem: 10341)
Con người không bao giờ ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên để mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình... Tuệ Sỹ
(Xem: 16219)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19180)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 8689)
Long Thọ (Nagarjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán mà ngài còn được coi là vị Phật thứ hai sau đức Thế Tôn trong lịch sử phát triển Phật giáo.... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 8033)
Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 24154)
Cúng dườngbố thí vốn cùng một nghĩa "cho". Cái gì của mình mà có thể đem ra "cho" người khác, thì gọi là "cho"... TT Thích Nhất Chân
(Xem: 9396)
Lịch Sử Văn Học Phật Giáo Tiếng Sanskrit (Literary History of Sanskrit Buddhism - Nguyên tác: J. K. Nariman; Thích Nhuận Châu dịch Việt
(Xem: 7647)
Yết-ma là phiên âm từ karman của tiếng Phạn. Hán dịch là «biện sự tác pháp», và thường được các luật sư Trung quốc giải thích rằng «Vạn sự do tư thành biện cố.»... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 10562)
Chúng ta có thể thấy được đức tính của những khóm tre cây trúc, của những dòng sông, của cây mai, của đất, của áng mây... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17727)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 6963)
Giáo dục Phật giáo – nền giáo dục minh triết, vốn ở cao, ở trên triết học... Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Xem: 8881)
Đọc công trình của Francois Jullien những độc giả "Tây giả" (Á và Âu) có thể thấy được rằng người bà con nghèo của triết học có những sở đắc... Nguyên Ngọc dịch
(Xem: 12368)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 7711)
Chúng ta thường nghĩ là mình đã hiểu nhưng thật ra có lẽ ta chưa hiểu rõ thế nào là quy y Tam Bảo... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 14621)
Tăng đoànhình ảnh của Đức Phật, mang trọng trách thừa Như Lai sứ, hành Như Lai sự... Thích Phước Sơn
(Xem: 8258)
Ðại Tạng Kinh là một công trình tập thành tâm huyết của bao nhiêu thế hệ Tổ Sư, cổ đức Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Ly... Liên Hương kính ghi
(Xem: 7796)
Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bànsinh tử. Niết bànsinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia...
(Xem: 8857)
Có thể nói “tâm” là cơ sở và động lực giải nghiệp, giải hạn khổ ách đối với con người trong mọi không giannăng lực chuyển nghiệp.
(Xem: 14809)
Tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài... TT Thích Lệ Trang
(Xem: 9273)
"Khi cúng dường tứ sự đến cho một vị tỳ-khưu, hai vị tỳ-khưu, cận sự nam nữ đừng nghĩ đến cá nhân vị ấy mà cứ khởi tâm cúng dường Tăng..." Tâm Tịnh
(Xem: 12333)
Từ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 8508)
Theo Phật giáo, con người sinh ra từ vô thủy (thỉ) đến giờ đã trải qua vô lượng đời, và sẽ còn tiếp nối vô số đời nữa ở tương lai cho đến vô chung... Toàn Không
(Xem: 14522)
Hoa dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền-Trang; Việt dịch: HT Thích Trí-Quang; Anh dịch: Buddhist Text Translation Society
(Xem: 12488)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 8409)
Chúng tôi xin bàn về một số điểm liên hệ, nhất là làm rõ về niên đại Hán dịch của tác phẩm, từ đó chúng tôi xin ghi nhận một số từ ngữ, thuật ngữ Phật học đã được Hán dịch vào thời ấy... Đào Nguyên
(Xem: 10161)
Dù tâm mộ đạo, nhưng Phật tử còn theo nghi lễ xa xưa và kinh điển cổ ngữ, nên việc tu tập không còn phù hợp với nhu cầu của thời đại mới... Johan Galtung, Đỗ Kim Thêm
(Xem: 7760)
Trong việc quảng bá sự hiểu biết, vai trò của người Thầy thật hết sức cần thiết, thế nhưng người Thầy thì cũng phải có đầy đủ khả năng... Hoang Phong
(Xem: 16034)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý. ... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8216)
Nói đến văn hóa tức là nói đến tổ chức đời sống của một dân tộc, trong đó bao gồm các mặt kinh tế, xã hội, luật lệ, văn chương, mỹ thuật, tôn giáo, v.v... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8281)
Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt... Lâm Như Tạng
(Xem: 7870)
Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 11191)
“Bản Giác : Tâm thể của chúng sinh tự tánh thanh tịnh, lìa mọi vọng tưởng, sáng tỏ vằng vặc, có đức giác tri. Đó chẳng phải do tu thành mà như thế, mà chính là tính đức tự nhiên bản hửu, nên gọi là Bản Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 9139)
Thượng tọa Thích Thuyền Ấn trình bày tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào ngày 9-4-1967. Sau đó, bài diễn thuyết này được in trong tập Diễn Đàn Vạn Hạnh, số 1, do Ban Tu thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành năm 1967.
(Xem: 9279)
Bản Chất Của Tâm Thức - Tác giả: His Holiness the Fourteenth Dalai Lama, Anh dịch: Alexander Berzin, Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 8401)
Niết bàn, nirvana (S), nibbana (P), trong Sanskrit và Pali có nghĩa bóng là, một "thể trạng dập tắt". Hình ảnh của một ngọn lửa đã bị dập tắt qua việc không còn nhiên liệu nữa... Tác giả Alexander Berzin; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 7559)
Long Thọ nói, giáo pháp của Chư Phật y trên hai chân lý, tương đối hay thế tục đế, và tuyệt đối hay thắng nghĩa đế. Những ai không phân biệt được hai chân lý này, không thể hiểu thấu giáo pháp thâm sâu... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8014)
Kinh Hoa nghiêm, nói một cách đơn giản, là bộ kinh nghiên cứu về Pháp giới và cách phát khởi trí tuệ để thể nhập Pháp giới. Trong Pháp giớilý sự vô ngạisự sự vô ngại... Hồng Dương
(Xem: 8808)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant