Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tổng Luận Về Ý Nghĩa Từ Sila - Học Xứ

04 Tháng Bảy 201506:39(Xem: 15090)
Tổng Luận Về Ý Nghĩa Từ Sila - Học Xứ

TỔNG LUẬN VỀ Ý NGHĨA TỪ ŚĪLA - HỌC XỨ

Phước Nguyên

Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Śīla: học xứ, học giới,... nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể. Cho nên, muốn thể chứng bản tánh bất sanh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất lai, bất khứ, bất nhất và bất dị của Niết bàn phải đi bằng con đường các học xứ.

Bồ Tát Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh: “Nhược nhất thiết chúng sinh sơ nhập tam bảo hải dĩ tín vi bản, trụ tại phật gia dĩ giới vi bản”[1]: Hết thảy chúng sanh khi mới bắt đầu vào biển Tam bảo lấy tín làm gốc; khi sống trong ngôi nhà của Phật, thì lấy giới làm gốc.

Học xứ khởi sinh từ nơi tư tâm sở hay từ nơi ước muốn và thệ nguyện của một người tha thiết khất cầu pháp học xứ để sống đời thanh tịnh. Học xứ ấy là từ nơi hữu tác giới thểthành tựu vô tác giới thể.

Học xứ, tiếng Phạn là Śīla: có nghĩa là học tập theo các điều khoản đạo đức, học tập các điều thiện…chứ không có ý nghĩa cấm đoán, răn đe như các điều răn khắc khe. Hán phiên âm là Thi la và dịch là học xứ, học giới hay phổ thông dịch là giới.

Śīla hay học xứ được giải thích với rất nhiều ý nghĩa:

Tránh xa:

Học xứ có nghĩa là trung đạo, vì tránh xa hai cực đoan ép xác khổ hành và buông lung trong các dục.

Tránh xa khổ hành: Đây là sự tu tập không dẫn đến đời sống an lạcgiải thoát tối thượng.

Tránh xa buông lung trong các dục: Vì đây là sự chạy theo các dục để hưởng thụ khoái lạc, là sự thấp kém và đê tiện, không có an ổn tối thượng, không phù hợp với đời sống cao thượng.

Đức Phật thiết định các học xứ, để thi thiết lối sống tránh xa hai cực đoan ấy và thực hành trung đạo. Trung đạo ở đây không phải là con đường giữa, mà là con đường vượt ra khỏi hai cực đoanép xác khổ hạnhbuông lung theo các dục. Con đường ấy có khả năng dẫn sinh dẫn tới đời sống tịch tĩnh, giải thoát hoàn toàn khỏi mọi khát ái.

Từ bỏ:

Học xứ có nghĩa là từ bỏ đối với các ác nghiệp hay tà nghiệp như: sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, vọng ngữ,... Vì vậy, học xứ có nghĩa là từ bỏ các tà nghiệp để dẫn tới chánh nghiệp.

Chánh Nghiệp từ Sanskirt là Samyakkarmānta, Pāli gọi là Sammākammanta. Karmānta của Sanskrit, có động từ căn k: tạo tác, hoạt động, hành động,... Hán dịch SamyakkarmāntaChánh nghiệp; Anh ngữ gọi là Right action, Right occupation,... Từ Samyak: có nghĩa là chính xác, trực tiếp, hợp lý, đích thực, hiện thực,…Hán dịch là: Chánh, Trực. Anh ngữ dịch là: Right. Ở đây từ từ Samyak nên hiểu là hợp lý. Hợp lý ở hai phiên diện: Thân và Khẩu.

Thân cận:

Học xứ có nghĩa là gần gũi với Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến.

Chúng ta cũng có thể nói khác đi, Học xứ gần gũi và đặt nền tảng dẫn đến sự thành tựu giải thoát và Niết-bàn.

Nhiếp hộ:

Học xứ có nghĩa là ngăn ngừa các ác pháp thuộc về thân và ngữ. Không thể ngăn ngừa các ác pháp thuộc về Ý.  Vì ý thì phải dùng định để điều phục chứ không thể dùng giới để ngăn ngừa những điều khoản phi pháp về ý được.

Học xứ có nghĩa là phòng hộ năm căn môn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt và thân khiến năm trần cảnh: sắc, thanh, hương, vị và xúc, không có khả năng xâm nhập để dẫn sinh nghiệp đạo bất thiện.

Giải thoát:

Học xứ có nghĩa là giải thoát đối với các ác nghiệp đạo thuộc về thân và khẩu. Vì thân và khẩu không tạo tác ác nghiệp, bên cạnh Ý được phòng hộ bởi năng lực của định và khát ái bị kiếm Tuệ chém đứt. Do đó, sanh tử được chấm dứt, khổ đau bị đoạn tận. Nên học xứ được nói là giải thoát.

Thận trọng:

Śīlahọc xứ, phòng hộ các điều phi pháp một cách thận trọng, khiến các sai lầm từ thô đến tế, không có điều kiện sinh khởi làm ảnh hưởng đến đời sống phạm hành thanh tịnh.

Học xứ có nghĩa là thận trọng đối với với các oai nghi, như đi, đứng, nằm, ngồi. Thận trọng từng hành vi nhỏ nhiệm, cẩn trọng tháo gỡ từng sự trói buộc vi tế của thân và khẩu, đang kiềm hãm thân và khẩu trong sự phiền não.

Chế ngự:

Học xứ có nghĩa là chế ngự đối với các ác nghiệp, chế ngự các điều phi pháp thuộc thân và khẩu do tùy theo giới bổn; thế nên, học xứ có nghĩa là chế ngự.

Nâng lên và Gìn giữ:

Từ Sanskrit Śīla được giải thích ý nghĩa tương đương với từ Sanskrit Upadhārana, tiền tố từ Upa: chỉ sự tiếp cận, Dhārana: có nghĩa là thâu tóm, gìn giữ, thâu nhiếp, v.v.. cũng được hiểu là nâng cao, đưa cao. Nên Upadhārana được hiểu với nghĩa là tiếp cận học hỏi để gìn giữ hay tiếp cận học theo để nâng lên.

Tiếp cận học hỏi để gìn giữ, tức là tiếp cận học tập các điều khoản thiện pháp để giữ đời sống phạm hành thanh tịnh.

Tiếp cận học theo để nâng lên tức là tiếp cận học tập theo các điều khoản đạo đức, các điều khoản cao quý, để nâng hành từ những hành vi thấp hèn sang hành vi hợp lý, giải thoát cao thượng, nâng từ sinh tử lên Niết bàn.

Cho nên Śīla được giải thích ý nghĩa tương đương với từ Sanskrit Upadhārana vì nó gìn giữ về các điêu thiện, nếu không có các học xứ thì các thiện pháp hữu lậuvô lậu không có cơ sở để phát sinh.

Thanh Lương:

Từ Sankrit: Śītala có nghĩa là mát mẻ, tươi mát, êm diệu, tinh khiết v.v.. Hán dịch là Thanh lương, Anh ngữ chuyển dịch là Clear and cool; clear, pure v.v..

Học xứ có nghĩa là thanh lương, vì nó làm cho những oi bức khổ đau do thân và khẩu tạo tác lắng xuống, đưa đến sự êm diệu, tươi mát về thân và khẩu. Cho nên Śīla được giải thích tương đương với Śītala Thanh lương.

Diệu hành:

Diệu Hành là dịch từ chữ Sanskrit Sucarita, có nghĩa là việc làm thù diệu, hành động cao thượng.

Học xứ có nghĩa là diệu hành, vì nó có năng lực đưa người hành trì đi đến chỗ cao thượng, rời xa chỗ nguy hiểm đạt đến bình an đích thực.

Tư Tâm Sở:

Theo ngài Vāsubandhu (Thế Thân) thì Tư hay Ý chí (cetanā) có ba loại: Thẩm lự tư, Quyết định tư và Phát động tư[2].

Học xứ hiện diện và khởi sinh từ Tư Tâm Sở của một người có ý chí và phát ra lời nguyện: “Kể từ bây giờ cho đến trọn đời, từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cướp, từ bỏ tà hạnh, từ bỏ vọng ngữ” Vì nó là bảy tác ý, luôn đi kèm bảy trong mười nghiệp đạo thiện, từ nơi một người phát khởi ý chíthệ nguyện trọn đời từ bỏ các hành vi phi pháp trên. Nên Śīla được giải thích ý nghĩaCetanā hay rõ hơn là tư tâm sở.

Tâm sở Thọ, Tưởng và Hành:

Học xứ hiện diệnphát khởi từ tâm sở thọ, tâm sở tưởng và tâm sở hành của một người giữ gìn sự khước từ đối với thân và khẩu.

Hành: từ Sanskrit là Saskāra, Pāli gọi là Samkhara, Saskāra có rất nhiều nghĩa. Nếu nó đi từ động từ căn Sam-skri, thì có nghĩa là đặt vào với nhau, liên kết với nhau. Nhưng nếu nó đi từ động từ căn Sams-kri thì có nghĩa là hành động liên kết, tác động liên kếtSaskāra là hành động có tính liên kết, sự hoạt độngtính cách xông ướp, tập luyện, thường xuyên. Hán dịch Saskāra là Hành, có nghĩa là hoạt động, tác động, vận hành... Theo ngài Budhaghoṣa, thì Hành lấy hoạt động làm tướng, lấy nỗ lực làm dụng, lấy ý chí làm động cơ và lấy vô minh làm duyên[3]

Tưởng: Sanskrit gọi là Sajñā: căn động từ là jñā có nghĩa là: ấn tượng, ý niệm, khái niệm, tư tưởng, hiểu biết v.v..

Kết hợp

Từ Sanskrit Śīlana, có nghĩa là kết hợp, liên kết, nối kết, gắn kết v.v.. Vì Śīla-học xứ, có khả năng kết hợp với thiện nghiệp đạo của thân và ngữ. Nên Śīla được giải thích với ý nghĩa của từ Sanskrit Śīlana.

Không nên vượt qua:

Vì các học xứ là hàng rào ngăn cản tội lỗi, là bờ đê ngăn chặn nước lũ ác pháp. Nếu vượt qua các học xứ, không thi hành, không gìn giữ thì rơi vào điều ác, điều tội lỗi. Chữ “Tội” ở đây phải hiểu là hành động, việc làm … bị bậc Thánh chê trách.

Điểm hội tụ:

học xứ do đức Thế Tôn thiết định từ nơi bản thể Nhất như của Niết-bàn, nên học xứ ấy, là khởi điểm, và là điểm tụ hội của hết thảy thiện pháp.

Đình chỉ:

Các Học xứ có khả năng đình chỉ các hành động phi pháp, các việc làm xấu ác của thân nghiệpkhẩu nghiệp.

Thiện nghiệp

Học xứ có rất nhiều nghĩa, nhưng nghĩa căn bản là thiện, đạo đức, có khả năng phòng hộ hết thảy mọi ác pháp xảy ra đối với thân tâm của một người đã phát nguyện thọ trì.

Luật Nghi:

Từ Sanskrit gọi là savara: phòng hộ, do đi từ động từ căn vs: bao trùm, phòng hộ, ước nguyện,.. Hán  dịch là luật nghi với ý nghĩa là phòng hộ, chứ không phải điều luật cấm cản, khuôn phép ngăn cấm, quy phạm luật lệ v.v.. như một số học giả đã từng giải thích.

Học xứ có khả năng phòng hộ căn môn, hay căn luật nghi, Sanskrit gọi là indriya-saṃvara, Pāli là indriyesu guttadvāro, có nghĩa là: canh chừng cánh cửa nơi các giác quan. Kinh nói: “So cakkhunā rūpa disvā na nimittaggāhī hoti (…) rakkhati cakkhundriya, cakkhundriye savara āpajjati. Sotena (…)”[4]: “Vị tỷ-kheo ấy, khi nhìn thấy sắc, không nắm chặt các hình tướng (…), giữ gìn giác quan con mắt, canh chừng nơi giác quan con mắt”.

Có ba loại luật nghi: căn luật nghi[5], phòng hộ các giác quan; biệt giải thoát luật nghi[6], phòng hộ bằng các điều học giới đã phát nguyện thọ; và vô lậu luật nghi[7], phòng hộ do chứng pháp vô lậu.

Theo Ngài Thế Thân giải thích trong Câu-xá luận: Luật nghi (savara) chính là một loại tư (cetana) có khả năng ngăn chận các hành động xấu và điều phục (savṛṇotti) thân ngữ sau khi được biểu hiện qua việc cương quyết (vidhi) không tạo tác tội lỗi, qua sự phát nguyện giữ giới; vì thế đã dựa vào đó để lập thành luật nghi biệt giải thoát[8]. Và Ngài Thế Thân cũng nói: luật nghi (savara), có khả năng thu thúc (savṛṇoti) và trừ diệt hoặc ngăn chặn dòng tương tục của ác giới (dauḥṣīlyaprabandha)[9].

Học xứ có hai đặc tính phối hợp. Một là làm nền tảng cho định và tuệ; hai là phối hợp với định và tuệ làm sinh khởi các thiện pháp vô lậu, tương ứng với Niết bàn. Học xứnhiệm vụ làm chấm dứt tà hành để thành tựu đức hành, diệu hành, tịnh hành, chánh hành, ứng lý hành, và giải thoát hành.

Học xứ có rất nhiều ý nghĩa như thế nghĩa, ý nghĩa tinh yếu của nó là đình chỉ hành vi phi pháp, ngăn chặn các ác nghiệpthi hành theo các thiện pháp, ý nghĩa căn bản của Học xứ là thiện, đạo đức, có khả năng phòng hộ hết thảy mọi ác pháp xảy ra đối với thân và ngữ của một người đã phát nguyện thọ trì các học xứ ấy[10].

Phước Nguyên



[1] Cf. 菩 薩 瓔 珞 本 業 經 卷 下, 大 眾 受 學 品 第 七 (T25n1485, tr. 1020b06):“若 一 切 眾 生 初 入 三 寶 海 以 信 為 本,住 在 佛 家 以 戒 為 本”.

[2] Sidhikarma, Đại chánh, Thành Nghiệp Luận.

[3] Vism XVII. p.528.

[4] Cf. M.i. 269.

[5] Skt. indrya-savara

[6] Skt. prātimoka-savara.

[7] Skt. anāsravasavara.

[8] Sẽ bàn rõ luật nghi ở một bài khác.

[9] Cf. Câu-xá 14, Đại 29, tr. 72a.

[10] Đến đây là hết phần ý nghĩa của học giới, còn phần bản chất, chức năng, phân khoa của học giới, lợi ích của sự hành trì lãnh thọ học giới, tai hại của sự phá giới, nguyên tắc trì phạm các học giới v.v.. sẽ tiếp tục trình bày cụ thể ở những tiết sau.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7723)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
(Xem: 8532)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
(Xem: 10120)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
(Xem: 18526)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14518)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8826)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8918)
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi tức là không, cũng là giả danh về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo.
(Xem: 8204)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 9006)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14173)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8443)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15278)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13149)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7813)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16669)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15508)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8986)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7933)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7102)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11262)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14272)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10472)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20459)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8784)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9285)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 24114)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12659)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7804)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16247)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15604)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8737)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7646)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14609)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9306)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15500)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15140)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16625)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13469)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15323)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7830)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7497)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7346)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 9012)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 14026)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 8021)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7843)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15800)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10261)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7688)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7510)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12782)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7848)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8097)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 14053)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7283)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9183)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9652)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13101)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7588)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
(Xem: 10128)
Chúng ta lễ lạy để tịnh hóa mọi tình huống trong quá khứ khi ta không kính trọng người khác... Nguyên tác: Lạt Ma Gendyn Rinpoche; Liên Hoa dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant