Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Triết Lý Hoa Sen Và Ý Nghĩa Tam Thừa Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

11 Tháng Chín 201516:06(Xem: 10912)
Triết Lý Hoa Sen Và Ý Nghĩa Tam Thừa Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
TRIẾT LÝ HOA SEN VÀ Ý NGHĨA TAM THỪA
TRONG KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Thích Giác Chinh

Triết Lý Hoa Sen Và Ý Nghĩa Tam Thừa Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

 

Hoa senbiểu tượng triết lý, tượng trưng cho sự thuần khiếtsinh hóa hồn nhiên[1] trong Phật giáo. Phật giáo Đại thừa[2] sử dụng Liên hoa diệu pháp hay Diệu pháp liên hoa[3] là hình ảnh liên hệ mật thiết đến Niêm hoa vi tiếu[4] và là biểu ngữ ẩn dụ của Tam thừa.[5]

Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn. Hoa senhình ảnh nhập thế một cách tích cựctiêu biểu nhất. Trên thế giới ít có loài hoa nào có nhiều phẩm chất cao quý như hoa sen. Bởi vậy mà nhà Phật ví nó như những đức tính của người tu hành giải thoát. Điển hình như, khi lễ Tam bảo, hai bàn tay chắp lại làm thành hình hoa sen búp, được gọi là phép lễ lạy “Liên hoa hiệp chưởng”. Bộ Tam y của một vị thầy Tỳ-kheo dùng để mặc hàng ngày và trong nghi lễ được gọi là “Liên hoa phục” hay còn gọi là “Liên hoa y”. Trong thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà được gọi là “Liên Bang”. Theo Tịnh Độ tông hay còn gọi là Liên tông thì trong thế giới này có rất nhiều hoa sen tinh khiết, thơm ngát hương, v.v… Theo một số giải thích của Tổ sư Liên tông, các nhóm bạn thân hữu cùng tịnh nghiệp để tu tập được gọi là “Liên xã” và thời gian được dùng để niệm Phật được gọi là “Liên liêu”, v.v… Đôi lúc trong đời sống hàng ngày người ta khen tặng một người có đôi mắt trong sáng, tươi đẹp thì gọi là “người có mắt sen” như người Ấn Độ đã gọi “Sri Krishna”, có nghĩa là đôi mắt hoa sen, v.v… rất nhiều ví dụ thú vị.

Ý nghĩa chung nhất cho triết lý loài hoa tinh khiết này là sự tượng trưng cho Tam Bảo – Phật, Pháp, Tăng và là biểu tượng của các đức hạnh Trí tuệ, Hỷ xả, Tinh tấn, Thanh tịnh, Từ bi. Hoa sen mọc trong đầm nước, từ một cõi trần ô trọc, bùn dơ nước đục đã vươn lên trở thành một bông hoa thanh cao, bông hoa thơm ngát, bông hoa của vũ trụ. Bông hoa này đã đi vào tâm thức của mọi người, trở thành hình tượng trong nghệ thuật, văn chương, kiến trúc - điêu khắc và cả trong đời sống hằng ngày... Đặc biệt, hoa sen trở thành biểu tượng trong nghệ thuật Phật giáo và nghệ thuật triết lý của Phương Đông. Nó tượng trưng cho vẻ đẹp thần bí, huyền ảo, tư tưởng sâu kín.

Trong nghệ thuật Việt Nam, hình tượng hoa sen dày đặc từ các phù điêu, đá tảng kê chân cột, bệ tượng Phật đến các dáng gốm và họa tiết trang trí. Hoa sen đã hóa thân vào những bài ca dao, tục ngữ, và câu truyền khẩu trong dân gian, đó là sự dung hòa triết lý Phật giáo và triết lý dân tộc Việt Nam:

“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng…”

Hay:

“Sen nở trong đầm đỏ trắng phơi,
Bùn nhơ không nhiễm sắc thêm tươi.
Thân ngay, ngó rỗng, gương đầy hột.
Cái lý tu hành cũng thế thôi.”

Sở dĩ người ta cho rằng hoa sen luôn gắn với Phật giáo là vì ở loài hoa này trong hoa đã có quả, nên cách gọi bao hàm nghĩa rộng trong trường hợp này là “vị liên cố hoa”, tượng trưng cho ý nghĩa của triết lý “nhân quả”, mang ý nghĩa Đạo đức học trong triết học Phật giáo.

Việt Nam, có một vài huyền thoại gắn với hoa sen như trong các sách sử phả ký và trong Đại Việt sử ký có ghi: khi Hoàng Hậu Đặng Thị[6] có thai vua Lê Đại Hành (941 - 1005), nhân một đêm nằm ngủ Bà mơ thấy bụng nở hoa sen. Đức vua Điều ngự Giác HoàngTrần Nhân Tông (1258 - 1308) nằm ngủ ở trong Chùa Tư Phúc mơ thấy ở bụng mình, ngay rốn mọc lên một hoa sen, trên hoa sen có một vị Phật thân mình vàng sắc ánh. Vào năm 1049, vua Lý Thái Tông (1028 - 1054) mơ thấy Đức Phật Quan Âm ngồi trên đài sen dắt vua lên ngự ở tòa chính điện trong cung. Chính vì thế mà Liên Hoa Đài[7] (蓮 花 臺) tức là “đài hoa sen” được xây dựng phỏng theo giấc mơ của vua Lý Thái Tông, còn được gọi là Diên Hựu Tự (延 祐 寺) hay Chùa Một Cột, hiện nằm giữa lòng thủ đô Hà Nội. Đó là một số hình ảnh liên đới giữa truyền thống dân tộc và Phật giáo Việt Nam biểu hiện qua triết lý hình tượng hoa sen trong Đạo Phật.

Trước khi tìm hiểu ý nghĩagiá trị Tam thừa trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thiết nghĩ trước hết chúng ta cần hiểu sơ lược về từ nguyên của đề kinh. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa theo tiếng Phạn (Sanskrit) là Saddharmapuṇḍarīka-sūtra. Trong bản dịch Hán Tạng – Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh (大 正 新 脩 大 藏 經) cao Tăng đời Tây Tấn, nước Nguyệt ThịTam Tạng Trúc Pháp Hộ[8] dịch từ “Sad”[9] trong Phạn bản là “Chánh” như thấy trong Đại Tạng “正 法 華 經”[10], nhưng Ngài Tam tạng Pháp sư Cưu-ma La-thập đời Hậu Tần nước Quy Tư phụng chiếu dịch”[11] từ “Sad” trong Phạn bản là “Diệu” như đã được thấy trong Đại Tạng là “妙 法 蓮 華 經”[12]. Ở Việt Nam, Hòa thượng Thích Trí Tịnh cũng dịch là “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”[13]; “Dharma”[14] là Pháp; “Puṇḍarīka”[15] là Hoa Sen Trắng; “Sūtra”[16] là Kinh. Ở Việt Nam các dịch giả dịch đầy đủ là “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” như đã thấy lâu nay đã truyền bản, còn được gọi tắt là Pháp Hoa Kinh.

‘Phương’ theo tiếng thuần Việt là phương hướng, phương pháp, phương tiện, v.v…, ‘Tiện’ là dễ dàng, thuận lợi, tiện dụng, tiện ích, tiện lợi, tiện nghi, v.v… “Phương tiện” được hiểu và sử dụng như là một phương pháp thiện xảo, thường xuất hiện trong các bản kinh tiếng Phạn là: upāya-kauśalya (S.), và một số ít kinh điển Pàli là: upāya-kusala.

Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đức Phật Thích Ca đã thị hiện để giúp chúng sanh “ngộ nhập Phật tri kiến”. Có nghĩa là Phật chỉ tuỳ cơ duyên, sử dụng các phương tiện bằng niềm tin (S. upāya) mà nói Tam thừa nhưng thực chất chỉ có Phật thừa (S. buddhayāna) dẫn đến giác ngộ. Quan điểm này được làm sáng tỏ bằng ẩn dụ một người cha vì muốn cứu những đứa con ham chơi, không biết nghe lời ra khỏi căn nhà đang cháy nên người cha đành phải hứa cho mỗi người con một món quà tuỳ ý thích của chúng, đứa thì được xe nai, đứa xe dê,... để dụ chúng ra ngoài. Đó là lối giáo hóa tùy duyên làm lợi ích cho chúng sanh, cho hữu tình. Đó là kim chỉ nam cho Phật giáo nhập thế.

Triết lý này như một định hướng có thể vận dụng để giải quyết các vấn đề về xã hội. Hãy cố giúp mọi người, mọi ngành khoa biết rõ về bản chất sự vật hiện tượng vốn y như thật, y như bản nguyên, dù được biểu hiện ở khía cạnh nào đi nữa thì chẳng qua đó chỉ là phương tiện. Do vậy, con người trong xã hội cần phải sống hòa hợp, hòa bình, phát triển và tiến bộ.

 _____________________________

 [1] Monier-Williams, Sanskrit – English Dictionary, phiên bản offline chạy trên Windows.

[2] H. 大 乘, S. Mahāyāna, dịch âm Hán-Việt là Ma-ha-diễn-na (H. 摩 訶 衍 那) hay Ma-ha-diễn (H. 摩 訶 衍), tức là “cỗ xe lớn” hay còn gọi là Đại Thặng tức là “bánh xe lớn” là một trong hai trường phái lớn của Phật giáo; trường phái còn lại là Theravāda (P.), S. Hīnayāna.

[3] 經 文 資 訊, 大 正 新 脩 大 藏 經 第 九 冊, No. 262 “妙 法 蓮 華 經”: (Kinh văn tư tấn), Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, đệ cửu sách, số 262, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Một trong những bộ kinhPhật giáo Đại thừa xem quan trọng nhất, được lưu hành rộng rãi đó là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (H. 妙 法 蓮 華 經, S. saddharmapuṇḍarīka-sūtra), cũng được gọi vắn tắtkinh Pháp hoa (H. 法 華). The Lotus Sutra, Tshò Volume 9, Number 262, Translated from the Chinese of Kumàrajiva, by Tsugunari Kubo and Akira Yuyama, Numata Center for Buddhist Translation and Research, 2007. Trong dịch bản English, các dịch giả, các nhà xuất bản dịch Saddharmapuṇḍarīka-sūtra là: “The Lotus Sutra” hoặc là “The Saddharmapundarika Sutra” do An abridged rendering produced for WBO Day ’99 ấn hànhphiên dịch.

[4] Niêm hoa vi tiếu (H. 拈 花 微 笑) có nghĩa là: cầm hoa mỉm cười. Đây là một giai thoại thiền, ghi lại sự kiện Đức Phật đưa cành hoa lên khai thị, Tôn giả Ca Diếp mỉm cười, là ý nghĩa chỉ có sự giao cảm, sự rung động giữa hai tâm thức Thầy và Trò, và hai tâm thức này đã đồng nhất. Đó là cái tâm vi diệu Niết-bàn.

[5] H. 三 乘, S. Triyāna; là ba cỗ xe đưa đến Niết-bàn (H. 涅槃, S. Nirvāṇa, P. Nibbāna), đó là Thanh Văn Thừa (H. 聲 聞 乘, S. śrāvakayāna), Độc giác thừa (H. 獨 覺 乘, S. pratyekabuddhayāna) và Bồ-tát thừa (H. 菩 薩 乘, S. bodhisattvayāna).

 

[6] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản kỷ, Quyển 1, Kỷ Nhà Lê, Mục Đại Hành Hoàng Đế.

[7] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản kỷ toàn thư, quyển 2.

[8] 經 文 資 訊, 大 正 新 脩 大 藏 經 第 九 冊 No. 263 “正 法 華 經” (Kinh văn tư tấn), Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh đệ cửu sách, No. 263, Chánh Pháp Hoa Kinh.

[9] Vaidya, Dr. P.L ed. Buddhist Sanskrit Texts No. 6 Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, Darbhanga: The Mithila Institute, 1960.

[10] Sđd, 大 正 新 脩 大 藏 經 第 九 冊 No. 263 “正 法 華 經”.

[11] 經 文 資 訊, 大 正 新 脩 大 藏 經 第 九 冊, No. 262 “妙 法 蓮 華 經”: (Kinh văn tư tấn), Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, đệ cửu sách, 262, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.

[12] Sđd, 大 正 新 脩 大 藏 經 第 九 冊, No. 262 “妙 法 蓮 華 經”.

[13] Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dịch giả: HT. Thích Trí Tịnh, Nxb Tôn Giáo, 2008.

[14] Sđd, Vaidya, Dr. P.L ed. Buddhist Sanskrit Texts No. 6 Saddharmapuṇḍarīka-sūtra.

[15] Sđd, Vaidya, Dr. P.L ed. Buddhist Sanskrit Texts No. 6 Saddharmapuṇḍarīka-sūtra.

[16] Sđd, Vaidya, Dr. P.L ed. Buddhist Sanskrit Texts No. 6 Saddharmapuṇḍarīka-sūtra.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7849)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7904)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 9022)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 26204)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13873)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 28040)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19903)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7804)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7646)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
(Xem: 7517)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 8076)
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là hiện hữu... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 9776)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lýthực tiễn.
(Xem: 22802)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 16949)
Khi Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ bày rõ ràng, cặn kẽ cho người xuất gia cũng như người tại gia ở từng địa hạt một của tâm linh... HT Thích Như Điển
(Xem: 8593)
Đức Phật A Di Đà không tự làm cho tội của chúng sanh tự tiêu hủy, mà cảnh giới của Ngài là nơi những chúng sanh ấy có thể nương nào đó để tồn tạitiến tu thêm nữa... HT Thích Như Điển
(Xem: 10428)
Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích... Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Xem: 10608)
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo...
(Xem: 11294)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
(Xem: 9918)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
(Xem: 10593)
Muốn được giải thoát, trước hết chúng ta phải quan sát sự vật một cách thật cặn kẽ để có thể biết được và hiểu rõ bản chất thật sự của chúng.
(Xem: 12746)
Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối.
(Xem: 8826)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
(Xem: 19901)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20874)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21427)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13476)
Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật.
(Xem: 10595)
Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh...
(Xem: 9562)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh...
(Xem: 26810)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 10769)
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng...
(Xem: 12163)
Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng, không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã)...
(Xem: 30960)
Đây là bộ sách trích lục những từ ngữ trong phần “Chú Thích” và “Phụ Chú” của bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC do chúng tôi soạn dịch...
(Xem: 14170)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
(Xem: 11177)
Môn Nhân minh học Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là chìa khóa của mọi thành công ở đời.
(Xem: 11119)
Ý thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại.
(Xem: 11264)
Đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộgiải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
(Xem: 11658)
Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
(Xem: 12771)
Để dạy Vô ngãVô phân biệt trong khi hành động theo cách phân biệt kỳ thị là không phù hợp lời nói với hành động.
(Xem: 24093)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 14938)
Hiện tại là giờ phút duy nhất mà mình có thể chọc thủng được bức màn thương đau, bức màn vô minh để có thể tiếp xúc được ngay với an lạc, với hạnh phúc, với tuệ giác.
(Xem: 11664)
Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp.
(Xem: 20289)
Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).
(Xem: 10630)
Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự...
(Xem: 10407)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
(Xem: 12308)
Xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm...
(Xem: 11515)
Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế).
(Xem: 14320)
Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.
(Xem: 11978)
Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may.
(Xem: 24680)
Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc...
(Xem: 12373)
Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành Phật Giáo...
(Xem: 22317)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 12585)
Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt.
(Xem: 12745)
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.
(Xem: 12652)
Đã là người đệ tử thì chúng ta phải tin và hành theo lời dạy của Phật, đó mới đúng là người đệ tử chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa trọn vẹn.
(Xem: 16844)
Có một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống...
(Xem: 13784)
Bất cứ một hiện tượng nào được phát sinh ra cũng đều phải nhờ vào một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện...
(Xem: 13074)
Cách tốt nhất để vượt thắng những điều không may, hay những thứ xui xẻo hãy tự mình làm nên những công đứcthiền quán về tánh không...
(Xem: 13529)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12634)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14522)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant