Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Duy Thức Học Từ Nhận Thức Đến Thực Nghiệm

30 Tháng Chín 201510:57(Xem: 8361)
Duy Thức Học Từ Nhận Thức Đến Thực Nghiệm

DUY THỨC HỌC
TỪ NHẬN THỨC ĐẾN THỰC NGHIỆM

Thiên Hạnh

-Duy Thức Học Từ Nhận Thức Đến Thực Nghiệm

 

      Bài viết này xin không trình bày lần lượt hệ thống các lý thuyết căn bản về Duy thức học mà chú trọng những điểm thiết yếu chi phối toàn triệt quá trình nhận thức một cách cô đọng và đặc trưng nhất có thể.

     Thức( vijnana) là dòng trôi tương tục dao động sáng tạo với những biểu đồ phức tạp được chi phối bởi những hệ quy chiếu mang màu sắc chủ quan, do đó có tính cá biệt đặc thù của mỗi cá thể. Sự tương tục tích góp bổ sung tỷ lệ thuận với thời gian trong một hệ giao thoa có ý thứcvô thức, do đặc trưng này nên gọi là tâm(citta). Diễn biến tư duy, cân đong đo đếm phân biệt với vô cùng các giới hạn liên đới nên có danh xưng là ý( manas).

  HIỆU ỨNG KHÚC XẠ

Khúc xạ là ảo ảnh có được khi một sự vật đi qua một môi trường khác với ban đầu, ảo ảnh do tác động của sự chiết suất( độ cong gãy) mà có. Tương tự, những gì từ thế giới xung quanh( tướng phần) được chủ thể( kiến phần) tiếp cận( không phải là cảm nhận) để xuất hiện những khái niệm, phán đoán, kết luận,…( lượng_tam lượng). Một cá thể hữu tình( còn cấu nhiễm) sẽ có những cảm nhận thiếu xác đáng, lệch lạc và sai lầm, trong đó vai trò của tự ngã( ngã si, ngã ái,…) và các phiền não trở thành chủ đạo.

  HỘI CHỨNG KHIẾM KHUYẾT_TIẾP NỐI_BỔ SUNG

Tất cả sự vật hiện tượng gọi chung là thế giới thật chất là tập hợp của vô số thông tin tồn tại như chính nó( nhậm trì tự tánh), trong khi cái tôi cá thể nương vào thức chấp ngã, tự nhuốm màu những cặp kính chủ thể làm bước đệm có tác năng như bộ vi xử lý( bộ lọc). Bước trung gian phản ánh sự khu biệt, hãn hữu, cắt xén, làm biến dạng thế giới chung quanh. Do vậy, chủ thể cảm nhận thế giới đã bị nhuốm màu phân biệt cuối cùng cái có được là những gì méo mó lệch lạc( những tín hiệu đã thay đổi với những mức độ khác nhau).

   Sự đa mang là tất yếu khi đồng hành với sự tiếp cận các pháp là sự có mặt của các chủng tử( bija) đúng hơn là các chủng tử gốc( bản hữu chủng tử), một dạng năng lượng tiềm tàng( thế năng) chúng sẽ trở thành nguồn năng lượng phát khởi và phát huy tác dụng theo những xu hướng định sẵn( thiện, ác) khi có đủ điều kiện kích hoạt đủ liều lượng( động năng). Chủng tử câu sanh này khởi hiện thông qua thức, hình thành định hướng sức sống và sự sống của chủ thể đương tại theo một quy thức mới có tính lập đi lập lại( tập khí_vasana) để rồi khi cơ hội chín muồi( dị thục) lại tiếp tục hình thành những dạng năng lượng mới( tân huân chủng tử) đưa vào kho chứa( tàng thức) dự trữ cho những vòng chuyển vận tác khởi tương lai.

   THỨC VÀ SỰ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM, LỐI SỐNG, HÀNH XỬ MANG TÍNH XÃ HỘI.

   Đứng trước một pho tượng Phật tọa vị bên trong Phật đường, nhà điêu khắc sẽ bị thu hút bởi đường nét, mảng tối sáng, tính cân đối trong nghệ thuật tạo hình; nhà chất liệu học thoạt tiên sẽ khởi lên sự đóan định về chất liệu cấu thành, ước định về tuổi thọ hay trọng lượng,…của bức tượng; còn nhà nghiên cứu nội thất thì nghiêng về sự đánh giá tỷ lệ giữa bức tượng và các phần còn lại, mức độ tối ưu trong sự phân bố không gian,…những ai có tín tâm với Đức Phật thì phát khởi lòng kính ngưỡng, tâm thức dâng lên những cung bậc rung động tâm linh, chẳng khác nào trước mặt họ chính là Đức Phật đang hiện hữu sống động.

   Con người đánh giá cảm nhận tự nhiên thông qua thức, không ai giống ai và hệ lụy là những cách hành xử cũng muôn màu muôn vẻ. Lĩnh vực xã hội càng đa dạng đa sắc và phức tạp bội phần. Tư duy là vũ khí đặc hữu của con người( con người là cây sậy biết tư tưởng_Pascal). Sản phẩm của tư duy là kết quả của các bộ óc trải qua hàng chục thế kỷ để chúng ta có một nền tảng đồ sộ của nhân loại với văn hóa, triết học, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật,…Riêng về các bình diện mang tính xã hội học có tác dụng định hướng lối sống nhiều người. Chuỗi phát triển từ ý niệm sau đó là ý tưởng rồi nâng lên một cách hệ thống nhờ sự tự khẳng định thành tư tưởng. Nếu tư tưởng đi đến sự chỉnh chu nhất định và có ảnh hưởng một bộ phận hay một thành phần trong xã hội thì xuất hiện hệ tư tưởng. Hệ tư tưởng sẽ là tiền đề hình thành chủ thuyết và cao hơn là chủ nghĩa. Suy cho cùng chúng cũng chỉ là sự hợp lưu của những dòng tư tưởng cùng tần số tương thích, bổ khuyết và bổ sung cho nhau mà tự định hình lấy.

   Sáng suốt trong phán đoán đánh giá hiện thực, con người chỉ biết nương vào thức mà thức bản chất là vọng( thiếu xác đáng, mơ hồ), tuy vậy vẫn có những phán đoán mang tính sáng suốt nhất định( tợ hiện lượng) đây là dấu hiệu tích cực mà người đời hay dùng cụm từ đã nhận ra vấn đề!. Nghĩa là đã thấy đâu là phải, đâu là chưa hay để tự điều chỉnh lối sống, điều chỉnh lý tưởng sống ngay từ trong hành vi, ngôn ngữý tưởng.

Để bước qua được những giới hạn trầm kha của nhận thức, thâm nhập vào cảnh giới của trực cảm thể nhập duy thức tánh trực nhận các pháp đúng bản chất( như thị_ tathata ) buộc chủ thể phải có những bước cải biến mang tính cách mạng. Trước hết phải dần loại bỏ những thói quen cố hữu, những tính cách tiêu cực( tập khí ). Giới Luật được coi là sự điều chỉnh cần thiết khi đóng vai trò huân tu như một pháp đối trị những pháp gọi là huân tập. Sự miên mật trong hành trì Gíao Pháp là tác năng tích cực đánh động các chủng tử thiện tính tiềm tàng trong tàng thức( Giáo dục không phải là chất cho đầy mà là đốt lên ngọn lửa_John Keats, thi hào Anh) đồng thời cô lập và kiềm thúc các chủng tử bất thiện tính, qua đó hình thành những chủng tử mới tích cực.

Lộ trình tu tập của Duy Thức chung quy cũng là phản vọng quy chơn, lối về cũng đồng với tất cả các pháp môn tu trong đạo Phật. Có khác chăng là Duy Thức học khai triển nhận dạng quy trình diễn biến phức tạp của thức( duy thức tướng ), từ đó chỉ ra các xu hướng nhận diện và hành xử tích cực để đạt được trí của sự nhận chân toàn triệt( Đại viên cảnh ), trí của sự không ngăn ngại trong các khái niệm toàn cục hay bộ phận, không gian thời gian( Diệu quan sát ), trí của sự vô chấp ngã pháp năng sở bỉ thử( Bình đẳng tánh ) và trí không lấy tiền đề chủ quan vọng động làm cơ sở( Thành sở tác ).

Lấy thực trạng làm bối cảnh và thực tiễn là mối dung hợp chủ khách thể, chúng ta mới thấy được giá trị của Duy thức học giữa thực tế cuộc sống. Con người đặc biệt là giới trẻ đang quay cuồng trong vô số dòng hấp lực, sự định dạng các diễn trình phức hợp đan xen của trùng trùng các khía cạnh đời sống sinh hoạt, giải trí khuynh loát tâm thức con người. Thức vọng động, dao động, nhiễu động kéo tâm ý con người xa dần các chuẩn mực tương đối đời thường. Nhân cách nhân phẩm bị thử thách nghiệt ngã nói chi đến những lý tưởng cao cả xuất thế. Đó là chưa đề cập đến hội chứng tâm lý mất thăng bằng đang có xu thế tăng dần trong xã hội hiện đại( bệnh hoang tưởng, thần kinh phân liệt, căng thẳng tâm lý_stress,..)

Hy vọng Duy thức học, một môn tâm lý học Phật giáo( nói theo các học giả thế học) sẽ góp phần lý giải, điều hướng và là pháp môn trị liệu tích cực góp phần an lạc cho đời sống nhân sinh theo tinh thần Phật Pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác.

Sài Gòn, 25.9.2015

 (Thiên Hạnh)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7724)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22519)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8924)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
(Xem: 10158)
Cho đến nay, người ta vẫn chưa biết chính xác bản kinh Pháp Hoa này được thiết lập khi nào, ở đâu và được ghi lại bằng ngôn ngữ nào trước hết.
(Xem: 16860)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 8294)
Việc nghiên cứu Kinh Lăng-già, đã được ngài D.T.Suzuki thực hiện, qua tác phẩm “rất thẩm quyền”: Studies in the Lankavatara Sutra – nghiên cứu về kinh Lăng-già.
(Xem: 19113)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 8017)
Chính pháp trụ một nghìn năm, tượng pháp trụ một nghìn năm, mạt pháp trụ một vạn năm. Thuyết này trích trong Kì-hoàn tinh xá bi.
(Xem: 6971)
Nhị đếtục đếchân đế, còn gọi là chân lý tương đốichân lý tuyệt đối hay chân lý thế gianchân lý xuất thế gian.
(Xem: 8240)
Phật giáocách sống dựa trên việc rèn luyện tâm. Mục đích cao nhất là để đi trên con đường giải thoát khỏi đau khổ, và đạt đến Niết Bàn,
(Xem: 8579)
Trong 2 giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ nguyện vọng và dấn thân, chỉ với việc dấn thân chúng ta mới thọ giới Bồ tát.
(Xem: 9684)
Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 9548)
Thực chứng giáo lý duyên khởi, người thông tuệ hoàn toàn không vướng vào những quan điểm cực đoan...
(Xem: 7737)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại họcTrung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.
(Xem: 8306)
Đức Phật nói, nếu giữ tâm vững như hòn đảo trước phong ba bão táp của cuộc đời thì chúng ta sẽ có được chất liệu an vui, an vui về thái độ, tinh thần...
(Xem: 8309)
Phật dạy thân người do tứ đại gồm bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại hình thành; đất với gió lại không thuận với nhau, gió thổi mạnh thì đất rung rinh..
(Xem: 7951)
Phật dạy trong mỗi người chúng ta đều có phần tâm linh sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó;
(Xem: 8455)
Thực tại nền tảng của thế giới Hoa Nghiêm là Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Đây là Pháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là Pháp thân của tất cả chư Phật.
(Xem: 9987)
Dựa trên giả định các hoạt động của Tâm tạo ra những cấu trúc não bộ mới (Hebb 1949) cho biết ý tưởng, tình cảm có thể để lại dấu ấn
(Xem: 9011)
Là giai đoạn duy nhất trong kinh nghiệm cận tử liên quan đến việc nhận thức thế giới mang tính vật lý hơn là tính tâm linh...GIDEON LITCHFIELD
(Xem: 8803)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”
(Xem: 8049)
Nếu quý vị không có tuệ giác trong cung cách chính mình và mọi thứ thật sự là, quý vị không thể nhận ra và xa lánh những chướng ngại...
(Xem: 9965)
Tâm ta là vật quan trọng nhất. Mọi sự đến từ tâm, vì thế tất cả những gì không ai ưa thích mà giờ đây ta đối mặt cũng đến từ tâm.
(Xem: 9873)
Những giác quan của chúng ta góp phần cho sự si mê của chúng ta. Đối với những tính năng của chúng ta về thấy, nghe, ngửi, nếm, và cảm giác, những đối tượng dường như tồn tại trong tự bản chất của nó.
(Xem: 9371)
Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù.
(Xem: 10260)
Bất cứ ai quan tâm đến lịch sử Đức Phật đều muốn biết về bữa ăn cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà (Cunda) cúng dường,
(Xem: 14583)
Là vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Tuệ, Bồ Tát Văn Thù thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen.
(Xem: 9134)
Đức Phật là một bậc đạo sư thực tiễn. Mục tiêu duy nhất của Ngài là giải thích tất cả chi tiết trong vấn đề của khổ là thực tế phổ biến của cuộc đời.
(Xem: 8625)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 9777)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”.
(Xem: 15792)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 8205)
Bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh hay còn gọi là bảy pháp bất thối được đề cập trong bài kinh Đại bát Niết bàn, gồm: Có Tín tâm, có Tàm, có Quý, Đa văn, Tinh tấn, Chánh niệmTrí tuệ.
(Xem: 11132)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh.
(Xem: 11794)
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý tríthiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm.
(Xem: 8883)
Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
(Xem: 9112)
Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh
(Xem: 12034)
Chữ “giác ngộ” trong Đạo Phật, tiếng Pali và Sanskrit đều là “Bodhi”. Tiếng Anh là “enlightenment” hay “awakening”
(Xem: 9440)
Chúng tôi đã thuyết giảng về những cảm xúc đau khổ và các tai hại mà chúng sẽ gây ra cho việc hành trì tu tập của chúng ta.
(Xem: 21757)
Chúng ta đã biết đời là vô thường đau khổ, nhưng chúng ta còn cố chấp cái ngã, cái ta, cố bám víu vào cái của ta, thì chúng ta không thể trừ bỏ được kiêu mạn,
(Xem: 15302)
Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoátgiác ngộ tối hậu...
(Xem: 8680)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộVãng sanh khác nhau thế nào?
(Xem: 9382)
Khi đã biết nghiệp báo nhân quả không thể tránh, khủng khiếp như thế, chúng ta phải cố gắng tránh làm ác từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm
(Xem: 7828)
Khảo sát hiện tượng "hội nhập văn hóa" tại một trung tâm Phật giáovị trí quan trọng vào hàng nhất nhì ở thời Lý-Trần như chùa Quỳnh Lâm...
(Xem: 9416)
Ta-bà là chu kỳ của sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu
(Xem: 9462)
Chúng ta sợ đủ thứ: sợ chết, sợ khốn khổ, sợ bị chê bai chỉ trích, và trên tất cả, hình như chúng ta rất sợ sự thật.
(Xem: 10443)
Con người sanh ra trên cõi đời này đã mang theo nghiệp nhân của đời trước, lúc lớn lên lại gây tạo thêm nghiệp mới.
(Xem: 8881)
Tất cả việc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích cho chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo.
(Xem: 14896)
Mặc dù các tôn giáo nhất là Phật giáo đều nhấn mạnh đến vấn đề Nhân Quả - Nghiệp báo, song Luật Nhân quả không phải là của riêng một tôn giáo nào, nó là một luật của tự nhiên
(Xem: 8043)
“Sống Tỉnh Giác” là sống tỉnh chứ không còn ngủ mê nữa. Đây là đi vào thực hành chứ không phải là học, hiểu hay lý luận suông.
(Xem: 8360)
Sau khi trở thành phật tử, có tam qui, ngũ giới rồi, người phật tử phải sống ra sao để an lạc hạnh phúc?
(Xem: 8441)
Tất cả chúng ta đều có duyên lớn được gặp Phật pháp, được học Phật, được có người chỉ đường, có bản đồ sẵn hết rồi, chỉ còn một việc là bước đi để trở về.
(Xem: 8857)
‘Tâm’ là chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là ‘giữ tâm ý trong sạch ’ , ‘
(Xem: 9156)
Chánh Giáo (Tam Bồ Đề_ Sambhodhi) cùng Giải Thoátmục đích chung của Phật và các đệ tử Thanh Văn...
(Xem: 8659)
Cầu xin mà có hiệu qủa, chẳng có ai không cầu, cứ ngồi đó mà cầu nguyện là tự có tất cả, chẳng phải làm việc vất vả, cần gì phải học hành cực nhọc....
(Xem: 8224)
Phật Giáo Ấn ĐộTây Tạng phân loại và hệ thống hóa toàn bộ giáo huấn của Đức Phật thành ba chu kỳ khác nhau gọi là "ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp"
(Xem: 7770)
Con Đường Của Bụt là chủ đề của khoá tu An Cư Kiết Đông năm 2008 - 2009. Đây là con đường Bụt đã đi, và chúng ta đang đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
(Xem: 9942)
con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ.
(Xem: 7954)
Con người luôn sống trong sợ hãi từ hiện tại cho đến vị lai, là do chính mình gây tạo nên bằng những hành động, lời nóiý nghĩ bất thiện
(Xem: 7895)
Kinh điển thường ví giận dữ như một cơn điên. Người điên cuồng không kiềm chế được ý thức nên hành vi, cử chỉ, việc làm gây thương tổn bản thân và người khác.
(Xem: 6994)
Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant