Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tự Tứ-Kết Nối Truyền Thông Tâm Linh

05 Tháng Mười 201510:48(Xem: 9057)
Tự Tứ-Kết Nối Truyền Thông Tâm Linh

TỰ TỨ - KẾT NỒI TRUYỀN THÔNG TÂM LINH

Thích Phước Đạt


Tự Tứ-Kết Nối Truyền Thông Tâm LinhTheo truyền thống sinh hoạt tu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều làm lễ Tự tứ, nhằm tạo điều kiện cho chư Tăng Ni phát lồ, thanh tịnh thân tâm. Trên hết, lễ Tự tứ còn có mục đích nữa là Đức Thế Tôn chứng minhcông nhận cho mỗi hành giả đã thành tựu sự tu tập với nhiệt tâm tinh cần trong cuộc hành trì thăng chứng nội tâm hướng đến giải thoát tối hậu qua ba tháng cấm túc. Chính với ý nghĩa đó mà lễ Tự tứ, một mặt, vẫn là một dấu ấn lớn dành cho chư Tăng Ni trong giới thiền môn, mặt khác, ngày nay đã thực sự mang một giá trị truyền thông tâm linh trên bình diện cộng đồng xã hội trong việc xây dựng nếp sống đạo đức hướng thiện và hạnh phúc cho con người. Bởi vì, suy cho cùng thì giá trị của lễ Tự tứsự thể hiện việc quyết định nỗ lực hoàn thiện nhân cách, thăng chứng tâm linh và khai mở trí tuệ đối với mọi cá nhân con người trong cuộc sống vốn biến động không ngừng.

Thực tế, ngay từ thời Phật còn tại thế, lễ Tự tứ đã được Đức Thế Tôn và các đệ tử Trưởng lão tổ chức đơn giản nhưng hết sức trang nghiêm, trong một môi trường thanh tịnh, ban đầu là ngay giữa khu rừng, sau đó là tại các tinh xá. Khởi nguyên của ngày này là chúng Tăng an cư tự thân nghĩ rằng: “Tuy mình đã gắng tu như thế, nhưng không chắc đã tránh hết lỗi lầm, nên khi tròn ba tháng (vào Rằm tháng Bảy) cùng nhau tập trung lại, cầu mong những vị có giới đức thanh tịnh hơn mình chỉ lỗi cho. Nếu mình tự thấy mắc phải lỗi lầm thì phải phát lồ sám hối”. Đây chính là cốt lõi của ngày lễ Tự tứ. Mục đích của lễ này là để mỗi vị hành giả an cư tự nêu lên các tội mình đã phạm trong ba việc thấy, nghe, nghi đối trước các vị đồng phạm hạnh khác mà sám hối. Nhờ sự sám hối này mà thân tâm thanh tịnh, tự sinh vui mừng, nên gọi là Tự tứ.

Tự tứ là dịch nghĩa từ chữ Phạn (Paravana theo Pali hay Pravarana theo Sanskrit), dịch âm là Bát-lợi-bà- thích-noa, Bát-hòa-la, có khi còn dịch là Mãn túc, Hỷ duyệt, Tùy ý sự. Vì lễ Tự tứ được cử hành giữa chư Tăng  Ni nên ngày này được mệnh danh là Tăng Tự tứ nhật – ngày chư Tăng Tự tứ; cũng từ giờ phút này chư Tăng thụ giới an cư được công nhận thêm một tuổi đạo nên còn gọi là ngày Tăng thụ tuế nhật.

Theo ghi nhận trong Thiên Tự tứ tông yếu thuộc Tứ phần Luật san phồn bổ khuyết hành sự sao, quyển thượng, phần 4 thì Phật chế hạ an cư 90 ngày, khiến Tăng chúng nhóm họp một chỗ hạ thủ công phu, hành trì giới hạnh, làm cho đạo hạnh trong sáng. Tuy nhiên, do phần lớn không nhận thức được việc làm của mình, không tự thấy lỗi lầm của mình đã phạm, nên phải nhờ đại chúng từ bi chỉ bảo. Do đó, vào ngày Tự tứ, mọi người phải hết lòng bày tỏ tội lỗi của mình, cầu thỉnh đại chúng dạy răn, bấy giờ mới hiển bày được những lỗi bên trong, sai lầm bên ngoài. Nhờ sự phát lồ sám hối này mà thanh tịnh. Điểm đáng nói là Phật không cho phép Tăng chúng thực hành phi pháp biệt Tự tứ, phi pháp hòa hợp Tự tứ, hữu pháp biệt Tự tứ, chỉ cho phép thực hành hữu pháp hòa hợp Tự tứ đúng như tinh thần của Kiền độ Tự tứ trong Luật Thập tụng 23 đã ghi.

Rõ ràng, theo Luật định thì mục đích của lễ Tự tứxây dựng đời sống Tăng-già hòa hợp thanh tịnh, trên cơ sở tự thân tu tập phạm hạnh tinh khiết. Quan điểm của Phật giáo thường được ghi trong các bản kinh là có hai hạng người đáng quý nhất ở đời. Thứ nhất là hạng người suốt đời không bao giờ tạo ra tội lỗi và thứ hai là hạng người có tạo ra tội lỗithành tâm sám hối, từ bỏ. Do đó, bất cứ người đệ tử Phật nào cũng phải quán triệt tinh thần này; nhất là các vị xuất gia, sống đời sống phạm hạnh, không gia đình, hướng tâm đến mục đích giải thoát tối hậu. Hẳn nhiên, không phải chỉ với ba tháng an cưhành giả đã thành tựu phạm hạnh đạt tới sự giải thoát, mà sự hành trì đòi hỏi hành giả phải trải nghiệm, hạ thủ công phu cả quá trình qua một thời gian nhất định với một không gian, môi trường tu tập thích ứng. Nhưng công bằng mà nói, khoảng thời gian ba tháng an cư hàng năm là thời gian mang tính chất quyết định, mang dấu ấn lớn trong việc dốc lòng, nhiệt tâm tinh cần, chứng đạt giác ngộ của một hành giả. Tại đây, mọi tâm lý mang tính chất “cái này là tôi, là của tôi, tự ngã của tôi” có thể tự đổ rụng, thay vào đó là thái độ sống vô ngã, sẵn sàng lắng nghe các đối tượng và tiếp nhận – sàng lọc các các thông tin để hành xử đúng với mọi người, mọi điều với sự soi rọi của chánh kiến.

Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả an cư tham dự buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác. Lòng tin vào tự thân có giá trị quyết định cho sự hoàn thiện nhân cách, thăng chứng tâm linh, thành tựu giới đức, tâm đức, tuệ đức sau ba tháng nỗ lực tinh tấn tu hành. Và ngay giờ phút thiêng liêng của lễ Tự tứ, hành giả tin mình đã chuyển hóa nội tâm, đã thành tựu, đã chứng đạt. Điều quan trọng hơn nữa, do tự mình phát tâm muốn sám hối những điều sai phạm mà chính bản thân không thấy, không biết, không nghe nên khởi tâm tin các vị đồng phạm hạnh khác một cách tuyệt đối trong tinh thần tôn trọng, hòa hợp, vị tha, bao dung độ lượng, công tâmbình đẳng.

Cho nên, hành giả an cư khởi niềm tin vào người đứng ra cử tội có đủ năm phẩm tính đúng như Luật định:

  1. Hỏi đúng lúc, đúng thời.
  2. 2. Thành thật, không có sự dối trá hay thêm bớt nào.
  3. Vì lợi ích, chứ không vì sự tổn hại.
  4. từ tâm, chứ không có sự ác ý.
  5. Ngôn ngữ từ ái, không thô lỗ.

Trong khi đó người nhận Tự tứ, người mà mình cầu thỉnh nhờ họ chỉ giáo cũng phải hội đủ năm phẩm tính:

  1. Không được thiên vị bất cứ ai.
  2. Không khởi tâm sân hận.
  3. Không được si mê.
  4. Không được khiếp sợ.
  5. Biết ai tự tứ rồi và ai chưa tự tứ.

Và như thế tính chất bình đẳng hòa hợp thanh tịnh trong lễ Tự tứ được xem như điều kiện cần và đủ để buổi lễ được thành tựu viên mãn.

Do đó, Luật cũng cũng đề cập đến trường hợp một người khi muốn cử tội người khác hay ngăn cản người khác Tự tứ thì trước hết ba nghiệp thân khẩu ý của người đó phải thanh tịnh hoàn toàn. Nếu một trong ba nghiệp thân khẩu ý không thanh tịnh thì lời cử tội ấy không có giá trị. Trong tiến trình cử tội người khác về việc thấy, nghe, nghi phải giải trình một cách rõ ràng, có chứng cứ xác thực; ngược lại trong khi trình bày thiếu sự hợp lý, bị chất vấn mà giải đáp không thỏa đáng thì bấy giờ luật sư có quyền phủ quyết và kết tội   trở lại vị đó với một tội danh thấp hơn một bậc so với một tội mà người ấy đã tố cáo người khác. Thí dụ có một vị tố cáo một người nào đó phạm tội tăng tàngiải đáp không thỏa đáng thì Luật sư kết tội vị tố cáo phạm Thâu-lan-giá…

Ngoài ra, trong tiến trình Tự tứ có vị Tỳ-kheo nào từng phạm tộiđại chúng không biết, không có ai cử tội, xem như đã thông qua. Tuy vậy, sau khi Tự tứ, nếu ai cố tình cử tội lại thì phạm luật. Rõ ràng, nội dung lễ Tự tứchư Tăng Ni thực hiện là nhằm giáo dục, giáo hóa hơn là chỉ trích hay trừng phạt. Vấn đề tự ý thức, tự giác hành trì và sống đúng luật nghi không chỉ tự tôn trọng phẩm hạnh của cá nhânđảm bảo tính hòa hợp thanh tịnh của đoàn thể Tăng-già nữa.

Từ nội dung ý nghĩa của việc thực thi lễ Tự tứ nói trên, giá trị truyền thông tâm linh trên bình diện xã hội của lễ này sẽ có tác động lớn vào việc thiết lập đời sống đạo đức hạnh phúc của con người. Thời gian an cưthời gian chư Tăng tập trung tu học, thành tựu phạm hạnh, thăng chứng đạo quả. Cũng chính thời gian này mà giới tại gia được nương tựa chư Tăng tu hành trong một môi trường tu tập lý tưởng nhất, có thiện duyên để hành trì nếp sống đạo đức, tu dưỡng bản thân, bình an nội tại.

Ảnh hưởng của lễ Tự tứ cũng nhằm giáo hóa thái độ sống tự ý thức hoàn thiện nhân cách của giới cư sĩ.

Theo dòng tâm lý đời thường, con người luôn tìm cách che giấu lỗi lầm, sợ người khác biết thì xấu hổ, vì thế phải tìm cách né tránh khi lỗi lầm của mình bị người khác nêu ra; hoặc trong trường hợp bị truy hỏi, không thể chối bỏ được mới thừa nhận; ngay cả khi tự mình nhìn ra lỗi lầm, tự phát tâm sám hối cũng chỉ âm thầm khấn nguyện trước Tam bảo. Phật dạy đây là một thái độ sống thường tình của con người, do bị thói quen thích nhìn lỗi người khác chứ không biết tự nhìn lỗi của mình. Quan điểm sống như vậy sẽ dẫn con người đến sự cố chấp, bảo thủ, chủ quan, không bao dungđộ lượng trong lúc hành xử với các mối quan hệ giữa người và người. Có khi cách sống này còn dẫn đến sự tha hóa đạo đức trong việc xây dựng cái “tự ngã” vốn không thật có trong cuộc đời này. Nhà Phật cho đó là chướng duyên lớn trong tiến trình tu tập, thực nghiệm tâm linh mà mỗi cá nhân, gia đình cần phải từ bỏ để có thể sẻ chia, tự nhìn lại mình trong việc kết nối yêu thương một cách trọn vẹn.

Trái với thái độ sống trên, Phật giáo, thông qua lễ Tự tứ, có khả năng kết nối các giá trị truyền thông tâm linh, đạo đức con người chung sống trong một môi trường, một cộng đồng lý tưởng. Sự thật con người tự nhìn nhận về lỗi lầm của chính mình là rất khó, ngay cả trước người thân như cha mẹ anh em, bà con quyến thuộc. Thế nhưng đối với người học Phật thì cái tâm lý tự giáp mặt cái tôi của chính mình sẽ tự phải tháo bỏ, thay vào đó là thái độ mong cầu được sửa chữa sai lầm, được trở nên hoàn thiện, thăng hoa. Bằng chứng các vị xuất gia, hành giả an cư là những vị thầy của quý Phật tử đã thực thi. Từ điểm nhìn này, bất cứ ai cũng tự thành thật, tự hoàn thiện nhân cách, sẽ góp phần đem lại hạnh phúcan lạc cho mọi người. Cho nên kinh Tăng Chi dạy “Nơi nào có chư Tăng tu tập thanh tịnh thì trú xứ đó được thanh tịnh, hội chúng Phật tử nương theo đó mà tu tập, nhất định được an lạc, thanh tịnh”.

Tự tứ cũng là ngày chư Tăng được tăng thêm tuổi hạ, ngày đánh dấu sự thành tựu trong việc tu tập, cũng là ngày mọi người hướng tâm báo hiếu cha mẹ, người còn kẻ mất, ngày xá tội vong nhân, tha thứ cho những lỗi lầm, chúc mừng vì những niềm vui đạt được; vì vậy ngày này chư Phật mười phương ba đời đều hoan hỷ. Thế nên, ngày Tự tứ còn gọi là ngày Phật hoan hỷ. Cũng nhân ngày Phật hoan hỷ, chư Tăng tăng thêm tuổi hạ, đồng nghĩa tăng thêm giới đức, tâm đức, tuệ đức, sẽ góp phần quyết định thêm giá trị truyền thông tâm linh cầu nguyện cho quốc thái dân an, chúng sinh dị độ, người còn kẻ mất đều ân triêm công đức. Vậy là không có lý do gì mà trong mỗi chúng ta lại không hân hoan, không hoan hỷ để sống, để tu, để đóng góp cho đời khi tự mình biết rằng “Chúng sanh là một vị Phật sẽ thành”.

Thích Phước Đạt

(Văn Hóa Phật Giáo 183)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8789)
Sinh thuận, tử an là một phước báo lớn của con người. Một khi chưa biết nghiệp duyên của mình sẽ chết bình an hay bất an thì hãy cố gắng tu tập các thiện pháp.
(Xem: 8486)
Bản Chất của Hạnh Phúc được trích từ tác phẩm Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc: Cẩm Nang cho Đời Sống, một quyển sách căn cứ trên sự mở rộng những đối thoại giửa Đức Đạt Lai Lạt MaBác sĩ Howard C. Cutter, một nhà tâm lý trị liệu phương Tây.
(Xem: 8021)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7779)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6977)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13845)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7578)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9340)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7869)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7812)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7366)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7756)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7482)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8691)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11100)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15473)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19265)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14950)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8853)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8856)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14717)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15308)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8551)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 11017)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11362)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8745)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9113)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19825)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24728)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8839)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9156)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10826)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9030)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7934)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8825)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8314)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7331)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11160)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7417)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8301)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17724)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44246)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45518)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45097)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10661)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8591)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7596)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7610)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7401)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12143)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7962)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8449)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9207)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8139)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8925)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 8045)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8212)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8713)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16380)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7160)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant