Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tự Tứ-Kết Nối Truyền Thông Tâm Linh

05 Tháng Mười 201510:48(Xem: 8997)
Tự Tứ-Kết Nối Truyền Thông Tâm Linh

TỰ TỨ - KẾT NỒI TRUYỀN THÔNG TÂM LINH

Thích Phước Đạt


Tự Tứ-Kết Nối Truyền Thông Tâm LinhTheo truyền thống sinh hoạt tu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều làm lễ Tự tứ, nhằm tạo điều kiện cho chư Tăng Ni phát lồ, thanh tịnh thân tâm. Trên hết, lễ Tự tứ còn có mục đích nữa là Đức Thế Tôn chứng minhcông nhận cho mỗi hành giả đã thành tựu sự tu tập với nhiệt tâm tinh cần trong cuộc hành trì thăng chứng nội tâm hướng đến giải thoát tối hậu qua ba tháng cấm túc. Chính với ý nghĩa đó mà lễ Tự tứ, một mặt, vẫn là một dấu ấn lớn dành cho chư Tăng Ni trong giới thiền môn, mặt khác, ngày nay đã thực sự mang một giá trị truyền thông tâm linh trên bình diện cộng đồng xã hội trong việc xây dựng nếp sống đạo đức hướng thiện và hạnh phúc cho con người. Bởi vì, suy cho cùng thì giá trị của lễ Tự tứsự thể hiện việc quyết định nỗ lực hoàn thiện nhân cách, thăng chứng tâm linh và khai mở trí tuệ đối với mọi cá nhân con người trong cuộc sống vốn biến động không ngừng.

Thực tế, ngay từ thời Phật còn tại thế, lễ Tự tứ đã được Đức Thế Tôn và các đệ tử Trưởng lão tổ chức đơn giản nhưng hết sức trang nghiêm, trong một môi trường thanh tịnh, ban đầu là ngay giữa khu rừng, sau đó là tại các tinh xá. Khởi nguyên của ngày này là chúng Tăng an cư tự thân nghĩ rằng: “Tuy mình đã gắng tu như thế, nhưng không chắc đã tránh hết lỗi lầm, nên khi tròn ba tháng (vào Rằm tháng Bảy) cùng nhau tập trung lại, cầu mong những vị có giới đức thanh tịnh hơn mình chỉ lỗi cho. Nếu mình tự thấy mắc phải lỗi lầm thì phải phát lồ sám hối”. Đây chính là cốt lõi của ngày lễ Tự tứ. Mục đích của lễ này là để mỗi vị hành giả an cư tự nêu lên các tội mình đã phạm trong ba việc thấy, nghe, nghi đối trước các vị đồng phạm hạnh khác mà sám hối. Nhờ sự sám hối này mà thân tâm thanh tịnh, tự sinh vui mừng, nên gọi là Tự tứ.

Tự tứ là dịch nghĩa từ chữ Phạn (Paravana theo Pali hay Pravarana theo Sanskrit), dịch âm là Bát-lợi-bà- thích-noa, Bát-hòa-la, có khi còn dịch là Mãn túc, Hỷ duyệt, Tùy ý sự. Vì lễ Tự tứ được cử hành giữa chư Tăng  Ni nên ngày này được mệnh danh là Tăng Tự tứ nhật – ngày chư Tăng Tự tứ; cũng từ giờ phút này chư Tăng thụ giới an cư được công nhận thêm một tuổi đạo nên còn gọi là ngày Tăng thụ tuế nhật.

Theo ghi nhận trong Thiên Tự tứ tông yếu thuộc Tứ phần Luật san phồn bổ khuyết hành sự sao, quyển thượng, phần 4 thì Phật chế hạ an cư 90 ngày, khiến Tăng chúng nhóm họp một chỗ hạ thủ công phu, hành trì giới hạnh, làm cho đạo hạnh trong sáng. Tuy nhiên, do phần lớn không nhận thức được việc làm của mình, không tự thấy lỗi lầm của mình đã phạm, nên phải nhờ đại chúng từ bi chỉ bảo. Do đó, vào ngày Tự tứ, mọi người phải hết lòng bày tỏ tội lỗi của mình, cầu thỉnh đại chúng dạy răn, bấy giờ mới hiển bày được những lỗi bên trong, sai lầm bên ngoài. Nhờ sự phát lồ sám hối này mà thanh tịnh. Điểm đáng nói là Phật không cho phép Tăng chúng thực hành phi pháp biệt Tự tứ, phi pháp hòa hợp Tự tứ, hữu pháp biệt Tự tứ, chỉ cho phép thực hành hữu pháp hòa hợp Tự tứ đúng như tinh thần của Kiền độ Tự tứ trong Luật Thập tụng 23 đã ghi.

Rõ ràng, theo Luật định thì mục đích của lễ Tự tứxây dựng đời sống Tăng-già hòa hợp thanh tịnh, trên cơ sở tự thân tu tập phạm hạnh tinh khiết. Quan điểm của Phật giáo thường được ghi trong các bản kinh là có hai hạng người đáng quý nhất ở đời. Thứ nhất là hạng người suốt đời không bao giờ tạo ra tội lỗi và thứ hai là hạng người có tạo ra tội lỗithành tâm sám hối, từ bỏ. Do đó, bất cứ người đệ tử Phật nào cũng phải quán triệt tinh thần này; nhất là các vị xuất gia, sống đời sống phạm hạnh, không gia đình, hướng tâm đến mục đích giải thoát tối hậu. Hẳn nhiên, không phải chỉ với ba tháng an cưhành giả đã thành tựu phạm hạnh đạt tới sự giải thoát, mà sự hành trì đòi hỏi hành giả phải trải nghiệm, hạ thủ công phu cả quá trình qua một thời gian nhất định với một không gian, môi trường tu tập thích ứng. Nhưng công bằng mà nói, khoảng thời gian ba tháng an cư hàng năm là thời gian mang tính chất quyết định, mang dấu ấn lớn trong việc dốc lòng, nhiệt tâm tinh cần, chứng đạt giác ngộ của một hành giả. Tại đây, mọi tâm lý mang tính chất “cái này là tôi, là của tôi, tự ngã của tôi” có thể tự đổ rụng, thay vào đó là thái độ sống vô ngã, sẵn sàng lắng nghe các đối tượng và tiếp nhận – sàng lọc các các thông tin để hành xử đúng với mọi người, mọi điều với sự soi rọi của chánh kiến.

Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả an cư tham dự buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác. Lòng tin vào tự thân có giá trị quyết định cho sự hoàn thiện nhân cách, thăng chứng tâm linh, thành tựu giới đức, tâm đức, tuệ đức sau ba tháng nỗ lực tinh tấn tu hành. Và ngay giờ phút thiêng liêng của lễ Tự tứ, hành giả tin mình đã chuyển hóa nội tâm, đã thành tựu, đã chứng đạt. Điều quan trọng hơn nữa, do tự mình phát tâm muốn sám hối những điều sai phạm mà chính bản thân không thấy, không biết, không nghe nên khởi tâm tin các vị đồng phạm hạnh khác một cách tuyệt đối trong tinh thần tôn trọng, hòa hợp, vị tha, bao dung độ lượng, công tâmbình đẳng.

Cho nên, hành giả an cư khởi niềm tin vào người đứng ra cử tội có đủ năm phẩm tính đúng như Luật định:

  1. Hỏi đúng lúc, đúng thời.
  2. 2. Thành thật, không có sự dối trá hay thêm bớt nào.
  3. Vì lợi ích, chứ không vì sự tổn hại.
  4. từ tâm, chứ không có sự ác ý.
  5. Ngôn ngữ từ ái, không thô lỗ.

Trong khi đó người nhận Tự tứ, người mà mình cầu thỉnh nhờ họ chỉ giáo cũng phải hội đủ năm phẩm tính:

  1. Không được thiên vị bất cứ ai.
  2. Không khởi tâm sân hận.
  3. Không được si mê.
  4. Không được khiếp sợ.
  5. Biết ai tự tứ rồi và ai chưa tự tứ.

Và như thế tính chất bình đẳng hòa hợp thanh tịnh trong lễ Tự tứ được xem như điều kiện cần và đủ để buổi lễ được thành tựu viên mãn.

Do đó, Luật cũng cũng đề cập đến trường hợp một người khi muốn cử tội người khác hay ngăn cản người khác Tự tứ thì trước hết ba nghiệp thân khẩu ý của người đó phải thanh tịnh hoàn toàn. Nếu một trong ba nghiệp thân khẩu ý không thanh tịnh thì lời cử tội ấy không có giá trị. Trong tiến trình cử tội người khác về việc thấy, nghe, nghi phải giải trình một cách rõ ràng, có chứng cứ xác thực; ngược lại trong khi trình bày thiếu sự hợp lý, bị chất vấn mà giải đáp không thỏa đáng thì bấy giờ luật sư có quyền phủ quyết và kết tội   trở lại vị đó với một tội danh thấp hơn một bậc so với một tội mà người ấy đã tố cáo người khác. Thí dụ có một vị tố cáo một người nào đó phạm tội tăng tàngiải đáp không thỏa đáng thì Luật sư kết tội vị tố cáo phạm Thâu-lan-giá…

Ngoài ra, trong tiến trình Tự tứ có vị Tỳ-kheo nào từng phạm tộiđại chúng không biết, không có ai cử tội, xem như đã thông qua. Tuy vậy, sau khi Tự tứ, nếu ai cố tình cử tội lại thì phạm luật. Rõ ràng, nội dung lễ Tự tứchư Tăng Ni thực hiện là nhằm giáo dục, giáo hóa hơn là chỉ trích hay trừng phạt. Vấn đề tự ý thức, tự giác hành trì và sống đúng luật nghi không chỉ tự tôn trọng phẩm hạnh của cá nhânđảm bảo tính hòa hợp thanh tịnh của đoàn thể Tăng-già nữa.

Từ nội dung ý nghĩa của việc thực thi lễ Tự tứ nói trên, giá trị truyền thông tâm linh trên bình diện xã hội của lễ này sẽ có tác động lớn vào việc thiết lập đời sống đạo đức hạnh phúc của con người. Thời gian an cưthời gian chư Tăng tập trung tu học, thành tựu phạm hạnh, thăng chứng đạo quả. Cũng chính thời gian này mà giới tại gia được nương tựa chư Tăng tu hành trong một môi trường tu tập lý tưởng nhất, có thiện duyên để hành trì nếp sống đạo đức, tu dưỡng bản thân, bình an nội tại.

Ảnh hưởng của lễ Tự tứ cũng nhằm giáo hóa thái độ sống tự ý thức hoàn thiện nhân cách của giới cư sĩ.

Theo dòng tâm lý đời thường, con người luôn tìm cách che giấu lỗi lầm, sợ người khác biết thì xấu hổ, vì thế phải tìm cách né tránh khi lỗi lầm của mình bị người khác nêu ra; hoặc trong trường hợp bị truy hỏi, không thể chối bỏ được mới thừa nhận; ngay cả khi tự mình nhìn ra lỗi lầm, tự phát tâm sám hối cũng chỉ âm thầm khấn nguyện trước Tam bảo. Phật dạy đây là một thái độ sống thường tình của con người, do bị thói quen thích nhìn lỗi người khác chứ không biết tự nhìn lỗi của mình. Quan điểm sống như vậy sẽ dẫn con người đến sự cố chấp, bảo thủ, chủ quan, không bao dungđộ lượng trong lúc hành xử với các mối quan hệ giữa người và người. Có khi cách sống này còn dẫn đến sự tha hóa đạo đức trong việc xây dựng cái “tự ngã” vốn không thật có trong cuộc đời này. Nhà Phật cho đó là chướng duyên lớn trong tiến trình tu tập, thực nghiệm tâm linh mà mỗi cá nhân, gia đình cần phải từ bỏ để có thể sẻ chia, tự nhìn lại mình trong việc kết nối yêu thương một cách trọn vẹn.

Trái với thái độ sống trên, Phật giáo, thông qua lễ Tự tứ, có khả năng kết nối các giá trị truyền thông tâm linh, đạo đức con người chung sống trong một môi trường, một cộng đồng lý tưởng. Sự thật con người tự nhìn nhận về lỗi lầm của chính mình là rất khó, ngay cả trước người thân như cha mẹ anh em, bà con quyến thuộc. Thế nhưng đối với người học Phật thì cái tâm lý tự giáp mặt cái tôi của chính mình sẽ tự phải tháo bỏ, thay vào đó là thái độ mong cầu được sửa chữa sai lầm, được trở nên hoàn thiện, thăng hoa. Bằng chứng các vị xuất gia, hành giả an cư là những vị thầy của quý Phật tử đã thực thi. Từ điểm nhìn này, bất cứ ai cũng tự thành thật, tự hoàn thiện nhân cách, sẽ góp phần đem lại hạnh phúcan lạc cho mọi người. Cho nên kinh Tăng Chi dạy “Nơi nào có chư Tăng tu tập thanh tịnh thì trú xứ đó được thanh tịnh, hội chúng Phật tử nương theo đó mà tu tập, nhất định được an lạc, thanh tịnh”.

Tự tứ cũng là ngày chư Tăng được tăng thêm tuổi hạ, ngày đánh dấu sự thành tựu trong việc tu tập, cũng là ngày mọi người hướng tâm báo hiếu cha mẹ, người còn kẻ mất, ngày xá tội vong nhân, tha thứ cho những lỗi lầm, chúc mừng vì những niềm vui đạt được; vì vậy ngày này chư Phật mười phương ba đời đều hoan hỷ. Thế nên, ngày Tự tứ còn gọi là ngày Phật hoan hỷ. Cũng nhân ngày Phật hoan hỷ, chư Tăng tăng thêm tuổi hạ, đồng nghĩa tăng thêm giới đức, tâm đức, tuệ đức, sẽ góp phần quyết định thêm giá trị truyền thông tâm linh cầu nguyện cho quốc thái dân an, chúng sinh dị độ, người còn kẻ mất đều ân triêm công đức. Vậy là không có lý do gì mà trong mỗi chúng ta lại không hân hoan, không hoan hỷ để sống, để tu, để đóng góp cho đời khi tự mình biết rằng “Chúng sanh là một vị Phật sẽ thành”.

Thích Phước Đạt

(Văn Hóa Phật Giáo 183)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7810)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7849)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 8972)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 26160)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13831)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 27994)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19865)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7785)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7628)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
(Xem: 7489)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 8047)
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là hiện hữu... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 9759)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lýthực tiễn.
(Xem: 22762)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 16944)
Khi Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ bày rõ ràng, cặn kẽ cho người xuất gia cũng như người tại gia ở từng địa hạt một của tâm linh... HT Thích Như Điển
(Xem: 8570)
Đức Phật A Di Đà không tự làm cho tội của chúng sanh tự tiêu hủy, mà cảnh giới của Ngài là nơi những chúng sanh ấy có thể nương nào đó để tồn tạitiến tu thêm nữa... HT Thích Như Điển
(Xem: 10418)
Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích... Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Xem: 10597)
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo...
(Xem: 11292)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
(Xem: 9915)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
(Xem: 10582)
Muốn được giải thoát, trước hết chúng ta phải quan sát sự vật một cách thật cặn kẽ để có thể biết được và hiểu rõ bản chất thật sự của chúng.
(Xem: 12723)
Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối.
(Xem: 8811)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
(Xem: 19884)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20852)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21402)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13465)
Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật.
(Xem: 10583)
Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh...
(Xem: 9558)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh...
(Xem: 26786)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 10761)
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng...
(Xem: 12147)
Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng, không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã)...
(Xem: 30931)
Đây là bộ sách trích lục những từ ngữ trong phần “Chú Thích” và “Phụ Chú” của bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC do chúng tôi soạn dịch...
(Xem: 14153)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
(Xem: 11158)
Môn Nhân minh học Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là chìa khóa của mọi thành công ở đời.
(Xem: 11104)
Ý thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại.
(Xem: 11256)
Đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộgiải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
(Xem: 11645)
Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
(Xem: 12754)
Để dạy Vô ngãVô phân biệt trong khi hành động theo cách phân biệt kỳ thị là không phù hợp lời nói với hành động.
(Xem: 24078)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 14931)
Hiện tại là giờ phút duy nhất mà mình có thể chọc thủng được bức màn thương đau, bức màn vô minh để có thể tiếp xúc được ngay với an lạc, với hạnh phúc, với tuệ giác.
(Xem: 11656)
Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp.
(Xem: 20275)
Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).
(Xem: 10620)
Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự...
(Xem: 10393)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
(Xem: 12293)
Xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm...
(Xem: 11512)
Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế).
(Xem: 14305)
Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.
(Xem: 11960)
Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may.
(Xem: 24647)
Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc...
(Xem: 12364)
Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành Phật Giáo...
(Xem: 22301)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 12577)
Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt.
(Xem: 12726)
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.
(Xem: 12646)
Đã là người đệ tử thì chúng ta phải tin và hành theo lời dạy của Phật, đó mới đúng là người đệ tử chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa trọn vẹn.
(Xem: 16830)
Có một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống...
(Xem: 13764)
Bất cứ một hiện tượng nào được phát sinh ra cũng đều phải nhờ vào một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện...
(Xem: 13054)
Cách tốt nhất để vượt thắng những điều không may, hay những thứ xui xẻo hãy tự mình làm nên những công đứcthiền quán về tánh không...
(Xem: 13523)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12614)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14506)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant