Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Nghiên Cứu Về Pháp Hành Bí Truyền Của Theravāda

25 Tháng Mười Một 201507:06(Xem: 10149)
Những Nghiên Cứu Về Pháp Hành Bí Truyền Của Theravāda

NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ
PHÁP HÀNH BÍ TRUYỀN CỦA THERAVĀDA

Tống Phước Khải

 
Những Nghiên Cứu Về Pháp Hành Bí Truyền Của Theravāda

“Theravāda  Tantra”,  hay “esoteric practices of Theravāda ” là những thuật ngữ mà các học giả phương tây sử dụng để gọi các pháp hành mang tính bí truyền của hệ thống Phật giáo Nam truyền mà họ đã phát hiện ra khi nghiên cứu thực tế tại các thiền lâm hoặc tự viện thuộc hệ thống này. Từ này trong tiếng Việt tạm dịch ra là “Mật Pháp của Theravāda . Nội dung những khám phá cho thấy phương pháp thực hành có những nét đặc thù, tương tự như pháp hành Tantra của Ấn Độ Giáo hoặc của Kim Cương Thừahoàn toàn khác  biệt với những giáo lý phổ biến được rộng truyền qua sách vở và các bài giảng thông thường của truyền thống Theravāda.

I. SỰ TỒN TẠI CỦA TRUYỀN THỐNG MẬT TRONG THERAVĀDA  

Bhikkhu Santidhammo, một nhà sư Theravāda  người Mỹ, thuộc trường phái Maha Ghosananda của Campuchia, đã dành hẳn một bài viết mang tựa đề “Theravāda  Tantra”, trong đó dẫn cứ rất nhiều tài liệu của các nhà nghiên cứu về những phát hiện này. Ông đã dùng cụm từ “esoteric tradition” để ghi nhận về sự tồn tại của truyền thống mật giáo tại Campuchia. Ông viết: “Though the words “tantra” and “vajrayana” are unknown in Cambodian sphere, the esoteric tradition exists” (1). Nghĩa Việt: “Mặc dù các từ “tantra” và “vajrayana” thì không được biết đến tại lãnh địa Campuchia, nhưng có sự tồn tại của truyền thống mật giáo (tại nơi đây).

Bhikkhu Gavesako, một nhà sư người Czech, tu học theo trường phái Ajahn Chah, trong phần trả lời câu hỏi của độc giả trên diễn đàn Phật học cũng minh họa nhiều tài liệu về vấn đề “Tantric Theravāda ”. Ông ghi nhận rằng từ “tantra” trong ngữ cảnh trên nhằm đề cập đến những pháp hành đã tồn tại hàng thế kỷ tại các nước Phật giáo Nam truyền Đông Nam Á. Bên cạnh đó, ông đã sử dụng thuật ngữtantric chant” để giới thiệu một bài tụng mật truyền có tên là Jinapañjara Gāthā, của hệ phái Theravāda  gồm 2 phiên bản Thái Lan và Sri Lanka, kèm theo là một video minh họa cho bài kệ này.

Ông viết: “Many Thai Buddhists know the tantric chant Jinapanjara Gatha by heart and it is also chanted in some of the forest monasteries of Ajahn Mun tradition. Here is a video demonstrating visually how the "protective cage" around you is gradually being built through the power of Buddhas, Arahants and Suttas” (2). Nghĩa Việt: “Nhiều Phật tử Thái Lan thuộc lòng bài tụng mật truyền Jinapanjara Gatha và bài này cũng được đọc tụng trong một số thiền lâm viện của trường phái Ajahn Mun.  Đây là một video minh họa trực quan về “chiếc lồng bảo hộ” xung quanh bạn được kiến tạo tuần tự bởi năng lực của Phật, A La HánKinh Điển.”

L. S. Cousins, một giáo sư hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu Phật học, từng là chủ tịch của Pāli Text Society, đã ghi nhận rằng: “Buddhaghosa mentions secret texts (gūḷhaganthaṃ) in three of his works, in the context of teachings which will not be received from a teacher if one does not pay proper respect” (Cousins, p.192).” Nghĩa Việt: “Buddhaghosa đề cập đến các văn bản mật (gūḷhaganthaṃ) trong ba tác phẩm của mình, rằng trong quá trình dạy dỗ thì những văn bản này sẽ không được ông thầy truyền trao  nếu như người đó không tỏ sự tôn kính đúng mực.”

II. NHỮNG NGHIÊN CỨU CỦA FRANÇOIS BIZOT VÀ MỘT SỐ HỌC GIẢ

Truyền thống Mật Pháp của Theravāda  đã được nhiều học giả phương tây phát hiện và nghiên cứu rất chi tiết. Người tiên phongnổi bật trong lĩnh vực nghiên cứu này là François Bizot, giáo sư danh dự của Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp, ông đã thâm nhập thực tế, học tập và sành sõi tiếng Khmer, sinh sống hằng nhiều năm trời tại Campuchia để tiếp cận các hình thức văn hóa bản địa. Sau đó ông đã cho ra đời nhiều tác phẩmgiá trị lớn lao về văn hóa Phật giáo bản địa Campuchia.  Những tác phẩm này đã trở thành tài liệu tham chiếu không thể thiếu đối với những học giả nghiên cứu về Phật giáo Theravāda  vùng hạ lưu sông Mekong, nhất là những pháp hành bí truyền của hệ phái này mà ngày nay khó có thể tiếp cận được. Các tác phẩm tiêu biểu của ông gồm:

1- La figuration des pieds du Bouddha au Cambodge (1971).

2- Le figuier à cinq branches: Recherche sur le bouddhisme khmer I (1976).

3- La grotte de la naissance: Recherches sur le bouddhisme khmer II (1980).

4- Le don de soi-même: Recherches sur le bouddhisme khmer III (1981).

5- Notes sur les yantra bouddhiques d'Indochine (1981).

6- Les traditions de la pabbajja en Asie du Sud-Est: Recherches sur le bouddhisme khmer IV (1988).

7- Ramaker ou l’amour symbolique de Ram et Seta: Recherches sur le bouddhisme khmer V (1989).

8- Le chemin de Lanka: Textes bouddhiques du Cambodge I (1992).

9- La guirlande de joyaux: Textes bouddhiques du Cambodge II (1993).

10- Le bouddhisme des Thais, Brève histoire de ses mouvements et de ses idées des origines à nos jours (1994).

11- Recherches nouvelles sur le Cambodge (1994).

12- La pureté par les mots: Textes bouddhiques du Laos (1996).

Bên cạnh đó, trong hai thập niên qua đã lần lượt xuất hiện nhiều nghiên cứu mới của các học giả về vấn đề mật pháp của Theravāda  như:

- “Aspects of Esoteric Southern Buddhism” của Lance Selwyn Cousins (1997).  

- “Meditation and Healing in the Theravāda  Buddhist Order of Thailand and Laos” của của Mettanando Bhikkhu (1999).

- “The Impact of the Abhayagiri Practices on the Development of Theravāda Buddhism in Sri Lanka” của R. Chandawimala Thero (2007).

- “The Sutta on Understanding Death in the Transmission of Boran Meditation From Siam to the Kandyan Court” của Kate Crosby, Andrew Skilton, Amal Gunasena (2012).

- “Traditional Theravāda meditation and its modern-era suppression” của Kate Crosby (2013).

III. MỘT SỐ NỘI DUNG TRONG CÁC NGHIÊN CỨU

1. Việc sử dụng Yantra

Yantra một một hình vẽ để biểu thị một ý nghĩa hay một năng lực huyền bí nào đó. Từ tiếng Việt gọi nôm na là “lá bùa”. Trong tác phẩm của mình Bizot đã trình bày rất nhiều loại Yantra (3). Phổ biến nhất là Yantra hình thành từ các chữ trong câu niệm 9 Ân Đức của Phật bằng tiếng Pāli:

iti pi so bhagavā arahaṃ sammā-saṃbuddho vijjācaraṇasaṃpanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathī satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā ti

Bizot minh họa tất cả 81 Yantra được thành lập dựa trên câu Chín Ân Đức này, trong đó có Yantra được sắp xếp theo hình dáng Đức Phật đang ngồi. Ngoài việc đọc xuôi, tức đọc câu niệm 9 Ân Đức theo cách bình thường, còn có các phương pháp đọc khác chẳng hạn nhưng đọc ngược từng chữ từ cuối câu lên đầu câu. Mỗi cách đọc là một Thần chú (Mantra) có công năng khác nhau.

Hình ảnh sau đây minh họa một Yantra Chín Ân Đức của Phật.

- Yantra bên phải là Yantra nguyên bản. Tiếng Pāli của 9 Ân Đức được viết bằng chữ Khmer.

- Yantra bên trái là minh họa âm đọc dựa theo các chữ đã ghi trên Yantra.

Lam sao nhan dien

Các chữ trên Yantra có thể được sắp xếp lại theo bảng sau:

I

RA

GA

TA

RA

TI

HAṂ

CA

TO

RO

THĪ

NAṂ

PI

SAM

RA

LO

PU

SAT

BUD

SO

ṆA

KA

RI

THĀ

DHO

BHA

SAṂ

SAṂ

VI

SA

DE

BHA

GA

BUD

PAN

DAM

VA

GA

DHO

NO

A

MA

MA

A

VIJ

SU

NUT

NUS

TI


Tại Sri Lanka, Chín Ân Đức của Phật bằng tiếng Pāli cũng được sử dụng để tạo thành một Yantra. Trong một nghiên cứu của Tiến sĩ người Sri Lanka, nhà sư R. Chandawimala Thero, ông đã tìm thấy Yantra này trong quyển sách Purāṇa Seth Pirith tiếng Sri Lanka. Yantra có tên là Māravijaya Yantra. Ông ghi nhận đây là một dạng thức bí mật được dùng cho những người tu ở chốn sơn lâm (“The Āraṇyaka Pirita and Māravijaya Yantra are two secret formulas used by yogīs, who practice in forests”). Trên Yantra, mỗi Ân Đức đều có kèm theo một câu chú. Lược đồ vị trí các chữ trên Yantra được sắp xếp theo bảng sau:

ITIPISO oṃ taṃ rāja maṇḍalaṃ

BHAGAVĀ oṃ deva taṃ maṇḍalaṃ

ARAHAṂ oṃ rāja taṃ maṇḍalaṃ

SAMMĀ-SAṂBUDDHO oṃ taṃ deva maṇḍalaṃ

VIJJĀCARAṆA oṃ taṃ deva maṇḍalaṃ

SAṂPANNO oṃ taṃ dūta maṇḍalaṃ

SUGATO oṃ taṃ vajra maṇḍalaṃ

LOKAVIDŪ oṃ taṃ duka maṇḍalaṃ

oṃ viṣa ṭiṃ

praleya

yakṣa yakṣṇī

pralesvahaṃ

ANUTTARO oṃ taṃ brahma maṇḍalaṃ

PURISADAMMA oṃ taṃ yakṣa maṇḍalaṃ

SĀRATHĪ oṃ taṃ brahma maṇḍalaṃ

SATTHĀ oṃ taṃ yakṣa maṇḍalaṃ

DEVA

MANUSSĀNAṂ

BUDDHO

BHAGAVĀ TI

oṃ taṃ īśvara maṇḍalaṃ

oṃ taṃ kahapati-manesvāhaḥ

oṃ taṃ īśvara maṇḍala

Nenavahaḥ


Việc bố trí Yantra theo hình thức như trên không thấy tồn tại trong các hình thức của Kim Cương Thừa (Vajrayana), do đó đây chỉ có thể là một hình thức riêng của hệ phái Theravāda, tuy nhiên pháp thực hành này không phổ truyền.

2. Việc sử dụng tiếng OṂ

Xem lại Yantra được sử dụng tại Sri Lanka như đã trình bày ở trên, chúng ta thấy có rất nhiều những câu chú được ghi trên đó bắt đầu bằng chữ OṂ như: oṃ taṃ rāja maṇḍalaṃ, oṃ deva taṃ maṇḍalaṃ, oṃ taṃ deva maṇḍalaṃ, oṃ taṃ dūta maṇḍalaṃ, oṃ taṃ vajra maṇḍalaṃ, oṃ taṃ duka maṇḍalaṃ v.v.

Trong các bài tụng tiếng Pāli có một bài ca ngợi ý nghĩa của chữ OṂ biểu trưng cho Tam Bảo, đó là bài NAMOKĀRAṬṬHAKA (tám namo) như sau:

Namo Arahato sammā-sambuddhassa mahesino      

Namo Uttama-dhammassa svākkhātasseva tenidha      

Namo Mahā-saṅghassāpi visuddha-sīla-diṭṭhino          

Namo omātyāraddhassa ratanattayassa sādhukaṃ   

Nghĩa tiếng Việt:

Con xin đảnh lễ Bậc Đại Ẩn Sĩ, Bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác.

Con xin đảnh lễ Giáo pháp tối thượng, được khéo thuyết giảng tại đây.

Con xin đảnh lễ đại Tăng chúng, có giới và kiến thanh tịnh.

Con xin đảnh lễ một cách tốt đẹp đến Tam Bảo được bắt đầu bằng OṂ (5).

Các ký tự đầu của các từ trong bài kệ gồm: Arahato, Uttama-dhammassa, Mahā-saṅghassāpi ghép lại sẽ thành lập chữ AUM tức là chữ OṂ.  Trong đó A biểu trưng cho Phật, U biểu trưng của Pháp, M biểu trưng cho Tăng.

Trong nghiên cứu của Bizot cũng ghi nhận việc sử dụng các mẫu tự âm MA, A, U thành lập một thần chú sử dụng trong việc hành thiền. Mỗi mẫu tự đều mang ý nghĩa biểu trưng cho một đối tượng của của Pháp Hành. Ví dụ:

MA: hít vào, U: thở ra, A: giữ tại rốn.

MA: tạng Luật, U: tạng Vi Diệu Pháp, A: tạng Kinh

MA: khổ, U: vô thường, A: vô ngã

3. Việc sử dụng thần chú qua các âm mang ý nghĩa biểu trưng

Trong nghiên cứu của mình, Bizot đã ghi nhận rất nhiều thần chú sử dụng theo cách kết hợp các âm của chữ. L. Cousins đã tóm tắt các chức năng biểu thị của thần chú như sau (6):

A PĀ MA CU PA: đây là biểu trưng 5 quyển sách của Tạng Luật.

DI MAṂ SAṂ AṂ U: đây là biểu trưng 5 quyển sách của Tạng Kinh.

SAṂ VI DH Ā PU KA YA PA: đây là biểu trưng 7 quyển sách của Tạng Vi Diệu Pháp.

Thần chú ARAHAṂ thì được L. Cousins dẫn trong Vimuttimaggadassana như sau: A: Phật, RA: Tăng, HAṂ: Pháp.

Câu NA MO BU DDHĀ YA thì được phân tích thành:

NA: 12 đức hạnh của mẹ

MO: 21 đức hạnh của cha

BU: 6 đức hạnh của vua

DDHĀ: 7 đức hạnh của gia đình

YA: 10 đức hạnh của thầy.

Ngoài ra, L. Cousins cũng ghi nhận sự kết hợp của bộ 3 passāsa, assāsa và nissāsa với câu chú có 7 âm SAṂ VI DHĀ PU KA YA PA và 4 thành tố NA MA A U, hành giả sẽ nhận được 14 ân đức của  một vị Thánh Tăng

IV. PHÁP THIỀN CHÍNH THỐNG BORĀN KAMAṬṬHĀNA

Vào năm 2012, một nhóm học giả nghiên cứu Phật học gồm Giáo sư Andrew Skilton, Giáo sư Kate Crosby, Tiến sĩ Amal Gunasena đã công bố một khám phá mới qua tập tài liệuThe Sutta on Understanding Death in the Transmission of Borān Meditation From Siam to the Kandyan Court.” Nghĩa Việt: “‘Kinh Hiểu Biết Cái Chết’ trong quá trình truyền bá pháp thiền Borān từ Thái Lan sang vương triều Kandy.”  Trong tài liệu nghiên cứu này, các tác giả đã dịch một văn bản tiếng Sri Lanka được tìm thấy tại Thư viện Anh Quốc ở London. Qua đó, minh chứng được rằng Pháp Thiền bí truyền Borān (Borān Kamaṭṭhāna) đã được công nhậnchính thống trong pháp hành dành cho các Chư Tăng của hệ phái Theravāda  tại Sri Lanka trước đây.

Tuy rằng pháp thiền Borān đã được Bizot ghi nhận tồn tại ở Campuchia và Thái Lan, nhưng sự hiện diện của nó tại Sri Lanka là một khám phá mới mẻ. Chẳng những thế, pháp thiền này còn là một phương pháp chính thống mà ngày nay không thấy được nhắc đến. Người học thiền Theravada ngày nay chỉ được học các pháp thiền như Minh Sát, An Chỉ.  

Khi so sánh bản kinh Hiểu Biết Cái Chết (Maraṇañānasutta) với  Figuier à cinq branches của Bizot, các tác giả nhận thấy nội dung của câu chuyện cơ bản là giống nhau. Câu chuyện trong kinh bản như sau: Tâm, là công chúa Cittakumārī, phải giết 5 con chim trên 5 nhánh của một cái cây để tìm ra viên ngọc quý là Tứ Thánh Đế, và do đó tìm thấy Niết Bàn. Điều khác biệt gây sự ngạc nhiên là trên thủ bản Sri Lanka có mô tả hình ảnh Māra cưỡng hiếp công chúa Cittakumārī.

Pháp Thiền Borān đã được Kate Crosby trình bày trong quyển sách tựa đề: “Traditional Theravāda meditation and its modern-era suppression.” và được xuất bản vào năm 2013.  Đặc điểm của Pháp Thiền này được ghi nhận là một phương thức bí truyền của Theravāda . Khởi sự của một thời thiền này cũng giống như cách thiền ghi nhận trong Thanh Tịnh Đạo. Tuy nhiên, điểm khác biệt là khi hành giả có được Nimitta (định tướng) thì dẫn nó qua mũi đi vào trong cơ thể, lần lượt định vị tại các huyệt khác nhau, và sau đó lưu giữ lại trong thai tạng. Ngoài ra, còn có sự kết hợp phức tạp của các Nimitta để tạo thành một Đức Phật nội tại cũng như tạo ra khả năng ảnh hưởng đến đối tượng bên ngoài. (7)

 

 (1) Bhikkhu Santidhammo, Theravāda  Tantra, URL: http://santidhammo.blogspot.com/2011/11/Theravāda -tantra.html

(2) Bhikkhu Gavesako, Tantric Theravāda ?, URL: http://www.dhammawheel.com/viewtopic.php?t=10503

(3) Bizot F., 1993, La guirlande de joyaux: Textes bouddhiques du Cambodge II,  Paris, EFEO (Textes bouddhiques du Cambodge, 2, Publication du FEM), pp. 57-84.

(4) Chandawimala, R., 2007, The Impact of the Abhayagiri Practices on the Development

of Theravāda Buddhism in Sri Lanka,  Ph.D. dissertation, University of Hong Kong, p.223.

(5) Tống Phước Khải, Ý nghĩa của tiếng OM trong thần chú tiếng Pāli và Sanskrit, URL: https://kinhmatgiao.wordpress.com/2015/02/26/y-nghia-cua-tieng-om-trong-than-chu-tieng-Pāli-sanskrit/

(6) Cousins, L. S., 1997,  Aspects of Esoteric Southern Buddhism’, in P. Connolly/S.

Hamilton (eds.), Indian Insights: Buddhism, Brahmanism and Bhakti: papers from the

annual Spalding Symposium on Indian Religions, London, Luzac Oriental, pp. 96-98.

(7) Crosby, K., 2013, Traditional Theravāda meditation and its modern-era suppression, Hong Kong: Buddha Dharma Centre of Hong Kong.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9084)
Thần thông của Đức Phật là một trong những đề tài thu hút người viết và lôi cuốn người đọc. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này.
(Xem: 7987)
Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ), người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục, người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời, và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
(Xem: 16163)
Khoa học thần kinh ngày hôm nay đã chứng minh một cách khách quan và cụ thể rằng chánh niệm (samma-sati) là con đường trực tiếp nhất để gạt bỏ vọng tưởng về cái "ta"
(Xem: 15702)
Trong các ngành khoa học, rất có thể khoa học thần kinh (neurosciences) sẽ là ngành phát triển mạnh và gây nhiều ảnh hưởng nhất trong những thập niên tới.
(Xem: 7935)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 7943)
Từ trước đến nay không có một tôn giáo, triết họctâm lý học nào phân tích tâm đầy đủ rõ ràng như Phật Giáo.
(Xem: 8663)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc.
(Xem: 7826)
Kinh Hoa sen pháp diệu là dịch nghĩa từ tiếng Phạn Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, và được dịch ra tiếng Trung Hoa bởi nhiều dịch giả.
(Xem: 7427)
Chẳng đồng nhất, chẳng dị biệt, chẳng đoạn diệt, chẳng thường hằng: đây là các giáo pháp bất tử của chư Phật, chư thượng thủ của thế giới.
(Xem: 9272)
Theo Phật Giáo, tâm tư duy (Tâm phan, như vệ tinh quả đất, định tinh mặt trời, và vô lượng thiên hà) có thể sinh ra trong không gian thời gian...
(Xem: 8532)
Trong cuốn giáo thuyết về linh hồn của Phật Giáo, Soul theory of the Buddhist, Giáo Sư Stcherbatsky, ghi nhận rằng...
(Xem: 8564)
Bất kì một sự vật gì tùy thuộc vào một nguyên nhân thì duyên hội thành một hiệu quả.
(Xem: 11840)
Đức Phật đã giải thích nguồn gốc của thế giới, vũ trụ, vạn vật, là do nghiệp quả (cause & effect) hấp dẫn cùng với sức thu hút bởi 12 nhân duyên
(Xem: 7460)
Ngũ uẩn hay là Ngũ ấm chỉ là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm...
(Xem: 8240)
Tạng Quang Minhcon đường đi của ánh sáng, cùng với năng lượng (chân hỏa tam muội, energy) và sắc tướng (mass) là phương tiện thần thông để du hành trong vũ trụ.
(Xem: 11648)
Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi?
(Xem: 7376)
Phật Pháp được chia ra làm bốn thể loại là Giáo, Lý, Hành và Quả.
(Xem: 8935)
Tâm người bị ba thứ độc tố trói buộc, chính vì vậy chúng ta không sao vượt thoát được cảnh trầm luân khốn khổ. Chúng ta bị mắc kẹt trong phiền não của ba độc
(Xem: 8378)
Trong ý niệm này là sự bất biến thiên được hiểu như là một sự tướng trạng hoá của thật tướng của các sự vật.
(Xem: 9992)
Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong...
(Xem: 9634)
"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" là một câu kinh rất ngắn trong cả quyển kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật rất nổi tiếng được giới học Phật trích dẫn nhiều nhứt.
(Xem: 9563)
Mọi tồn tại đều vốn có Tự tính (như là bản chất) của nó. Vì rằng cái thành lập ra nó là Nhân tạo tác (Nhân) và Điều kiện tạo tác (Duyên) cũng tồn tại,
(Xem: 10514)
Giai đoạn đầu của Phật giáo Đại thừa được thể chứng qua sự hình thành và phát triển một văn hệ đồ sộ là Bát-nhã ba-la-mật-đa (prajñāpāramitā).
(Xem: 10088)
Căn bản trung quán luận tụng (Mūlamadhyamaka-kārikā) là một bộ luận chính trong ngôi nhà đồ sộ tráng lệ Trung Quán.
(Xem: 8177)
Cộng đồng nhân loại đã đến một điểm nghiêm trọng trong lịch sử của nó. Thế giới ngày nay khiến chúng ta phải chấp nhận nhân loại là một.
(Xem: 20168)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 8049)
Trong thế giới này cá nhân không hiện hữu, ngã cũng không hiện hữu, bởi vì chúng là các sự vật duyên khởi.
(Xem: 8526)
Đối tượng chấp thủ của tâm chấm dứt (tâm hành xứ diệt), Con đường ngôn ngữ không có lối vào (ngôn ngữ đạo đoạn).
(Xem: 9394)
Đấng Toàn Giác biết đã đến lúc sắp kết thúc kiếp sống này của Ngài. Nhưng trước khi nhập diệt, Đức Phật muốn
(Xem: 9251)
Ngã được nói đến, Để phân biệt với vô ngã. Chư Phật dạy thật tướng các pháp, Không có ngã, không có vô ngã.
(Xem: 7697)
Để giúp độc giả, tôi sẽ trình bày một bản tổng hợp giáo lý của các thuyết phục chính yếu về tôn giáotriết học của ngài Long Thọ.
(Xem: 8323)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn?
(Xem: 8165)
Do vô minh che lấp, chúng sinh tạo ba hành, nên theo ba hành nghiệp (thân, ngữ, tâm) vào luân hồi sáu cõi.
(Xem: 8984)
Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”.
(Xem: 8728)
Chúng ta phải hỏi điểm xuất phát là gì, chủ đề là gì, và quan tâm tối hậu của bộ luận tuyệt vời này là gì.
(Xem: 8567)
Chúng ta đang tiến dần đến đỉnh cao vĩ đại của Giáo Pháp, và mặc dù có những nguy hiểm đáng sợ đang đe doạ thế giới chúng ta.
(Xem: 10141)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hoá dân gian như...
(Xem: 8092)
Năm giớimười điều thiện được xem là cơ sở thiết lập đạo đức Phật giáo thì giới thứ hai “Không trộm cắp” là nhằm đảm bảo tính công bình và hướng tâm con người đi đến sự vô tham, vô sân, vô si.
(Xem: 8798)
Một khi tâm giác ngộ đã phát sinh, hạt giống của giáo pháp sẽ tiếp tục lớn mạnh cho dù...
(Xem: 8976)
Năm pháp, cùng tự tính, Tám thức, hai vô ngã. Hết thảy nó đều thâu nhiếp Đại thừa.
(Xem: 8423)
Nếu chúng ta có một sự sân hận lớn dễ bùng nổ và chưa rèn luyện chính mình một cách thích đáng, thế nên khi chúng ta cố gắng để...
(Xem: 7591)
Nguyên lý ở đây, là nguyên lý vô ngã, của Pháp duyên khởi, nguyên lý này ở chỗ khác, Pháp Hoa còn gọi là “vốn thường hằng tịch diệt”:
(Xem: 7493)
Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiênniết bàn / bản tính niết bàn (prakrtiparinirvana; natural nirvana), vượt ngoài sầu muộn...
(Xem: 9471)
Phật giáo không bao giờ có khái niệm cõi âm hay là âm phủ. Có thể đây là những từ ngữ của tín ngưỡng dân gian
(Xem: 9830)
Tự lựctha lực là những khái niệm được đề cập rất nhiều trong Phật giáo. Những khái niệm này bao trùm...
(Xem: 8503)
Ba truyền thống Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng đều cho rằng Phật tánh hay Như Lai tạng là lần thuyết pháp sau cùng và cũng là cực điểm của kinh điển.
(Xem: 12237)
Tại sao gọi Tánh không duyên khởi? Nhà Phật nói tất cả pháp Tánh không, do duyên hợp thành các pháp.
(Xem: 9597)
Trước khi trở lại Tâm Kinh, hãy thử tìm hiểu thuyết vô ngã qua kiến giải của nhiều bộ phái khác nhau trong Phật giáo để...
(Xem: 7524)
Giáo huấn được mở rộng vô hạn và được tuyên thuyết đến vô lượng chúng sanh khắp các loài đủ các tính khí.
(Xem: 8804)
Sự “chuyển phước” như chỉ là một phép ẩn dụ phần nào đẹp để chỉ những gì xảy ra đối với những ảnh hưởng của hành động có kết quả tốt (puṇya), điều được gọi là “thiện nghiệp”
(Xem: 16820)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 8969)
Theo quan điểm của Phật Giáo thì mục đích của lễ bái là nhằm giúp chúng ta đến gần hơn với Đức Phật.
(Xem: 13209)
Phật giáophương cách dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân hận oán hờn, đó là phương thuốc diệt khổ cho vui,
(Xem: 19721)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 8594)
Dưới đây là một bài viết của học giả Phật giáo Philippe Cornu, và cũng là bài mở đầu trong tập san "Hướng nhìn Phật giáo" (Regard Bouddhiste)...
(Xem: 9181)
Đối với Phật giáo, dana - việc bố thí - giữ một vai trò thật quan trọng, bởi vì nếu ngay từ lúc mới khởi sự tu tập mà không thực thi việc bố thí thì sẽ ...
(Xem: 8271)
“Tất cả ba cõi chỉ là Một Tâm”. Phẩm Dạ-ma cung kệ tán nói, “Như tâm, Phật cũng vậy. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật, và chúng sanh. Cả ba không sai khác”.
(Xem: 9792)
Nghiệp quả: Quả chín (trên năm uẩn), * Quả tương đương với nhân,# Nghiệp quả qua hoàn cảnh
(Xem: 14988)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 7843)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant