Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Năm Pháp Trong Kinh Lăng-Già

19 Tháng Mười Hai 201516:29(Xem: 8975)
Năm Pháp Trong Kinh Lăng-Già
NĂM PHÁP TRONG KINH LĂNG-GIÀ
[Tư tưởng đặc biệt quan trọng trong giáo lý Đại thừa]

(Phước Nguyên trích dịch và chú
từ Kinh Saddharmalaṅkāvatārasūtram)

Kinh Lang Gia

*Trích nguyên một đoạn từ chương 6, Kinh Thánh Pháp Nhập Lăng-già:

"पुनरपरं महामते पञ्चधर्माः-निमित्तं नाम विकल्पस्तथता सम्यग्ज्ञानं च। तत्र महामते निमित्तं यत्संस्थानाकृतिविशेषाकाररूपादिलक्षणं दृश्यते तन्निमित्तम्। यत्तस्मिन्निमित्ते घटादिसंज्ञाकृतकम्-एवमिदं नान्यथेति, तन्नाम। येन तन्नाम समुदीरयति निमित्ताभिव्यञ्जकं समधर्मेति वा, स महामते चित्तचैत्तसंशब्दितो विकल्पः। यन्नामनिमित्तयोरत्यन्तानुपलब्धिता बुद्धिप्रलयादन्योन्याननुभूतापरिकल्पितत्वादेषां धर्माणां सा तथतेति। तत्त्वं भूतं निश्चतो निष्ठा प्रकृतिः स्वभावोऽनुपलब्धिस्तत्तथालक्षणम्। मया अन्यैश्च तथागतैरनुगम्य यथावद्देशितं प्रज्ञप्तं विवृतमुत्तानीकृतम्, यत्रानुगम्य सम्यगवबोधानुच्छेदाशाश्वततो विकल्पस्याप्रवृत्तिः स्वप्रत्यात्मार्यज्ञानानुकूलं तीर्थकरपक्षपरपक्षश्रावकप्रत्येकबुद्धागतिलक्षणं तत्सम्यग्ज्ञानम्। एते च महामते पञ्च धर्माः। एतेष्वेव त्रयः स्वभावाः, अष्टौ च विज्ञानानि, द्वे च नैरात्म्ये, सर्वबुद्धधर्माश्चान्तर्गताः। अत्र ते महामते स्वमतिकौशलं करणीयम्, अन्यैश्च कारयितव्यम्। न परप्रणेयेन भवितव्यम्॥

तत्रेदमुच्यते -

पञ्च धर्माः स्वभावश्च विज्ञानान्यष्ट एव च।

द्वे नैरात्म्ये भवेत्कृत्स्नो महायानपरिग्रहः॥ ५॥

नामनिमित्तसंकल्पाः स्वभावद्वयलक्षणम्।

सम्यग्ज्ञानं तथात्वं च परिनिष्पन्नलक्षणम्॥ ६॥"


[ सद्धर्मलङ्कावतारसूत्रम् Saddharmalaṅkāvatārasūtram , ६ क्षणिकपरिवर्तो नाम षष्ठः 6 kṣaṇikaparivarto nāma ṣaṣṭhaḥ | , Vaidya, The Mithila Institute of Post-Graduate Studies and Research in Sanskrit Learning, Darbhanga, 1963]

*Phần dịch theo nguyên văn Sanskrit:

Lại nữa, này Mahāmati (Đại Huệ)! Có năm pháp (pañcadharmāḥ):  Đó là, tín hiệu (nimittaṃ)[1], từ mô tả (nāma), cấu trúc mang tính ngôn ngữ (vikalpaḥ)[2], như như (tathatā) và chánh trí (samyagjñānaṃ).

Này Mahāmati! Trong đó tín hiệu, nghĩa là, những gì mà có các đặc điểm như: hình thể, khuôn khổ, tính đặc thù, màu sắc, dấu hiệu v.v…  Những cái đó gọi là tín hiệu[3].

Từ nơi các tín hiệu này, mà các ấn tượng được sinh khởi, ví như một cái lọ v.v... Y theo đó, người ta có thể diễn đạt: “Đây là cái này, cái kia, mà không phải là cái khác”. Cái đó gọi là “từ mô tả”[4].

Này Mahāmati!  Khi “từ mô tả” được phát biểu rõ ràng như thế, và tín hiệu được xác định cụ thể, thì liền có “cấu trúc mang tính ngôn ngữ”, phát biểu rằng: “Đây là Tâm”, “Đây là những gì thuộc về Tâm”[5]. Từ đó, một “từ mô tả” được phát ra tương ưng[6] với một hình thái, hay một đối tượng nào đó, có bản thể được nhận biết giống như thế.  Cái đó, gọi là “cấu trúc cấu trúc mang tính ngôn ngữ”[7].

Các từ mô tả ấy và các tín hiệu ấy, tận cùng là “bất khả đắc”, như là các thực thể tính[8], khi “kiến lập trí”[9] bị đập vỡ, và trong chiều kích hỗ tương tồn tại của tất cả mọi thứ, được xác định là không còn bị nhận thứcấn tượng. Đó gọi là “như như” của các pháp[10].

“Như như” này, có thể được mô tả đặc tính như là “chân đế”, là “hữu thể”, là “biết trực tiếp”, là “tận cùng”, là “căn nguyên”, và là “tự tính”.

Điều này đã được tự thân Ta (Phật) và các đức Như Lai khác thể nghiệm, thi thiết đúng như thực, xác chứng, công khai tuyên bố, và diễn thuyết rộng rãi.

Hoặc có ai, chứng nghiệm điều này, hiểu được [sự thật] một cách chính xác toàn diện, không phải là thường tồn, cũng không phải đoạn diệt, thì lập tức “cấu trúc cấu trúc mang tính ngôn ngữ” bị chấm dứt, liền phát sinh trạng thái tùy thuận với phương tiện của Thánh Trí ngay trong nội tâm, đây là một trạng thái, mà đó không phải là kết quả đạt được do quá trình tranh luận của các triết gia, cũng không phải là sở đắc của các hạng Thanh vănBích Chi Phật. Đó gọi là Chánh trí[11].

Này Mahāmati!  Đây là năm Pháp, ba tự tính, tám thức, hai vô ngã; và hết thảy chân đế của Phật đều được thâu nhiếp ở vào trong đó.

Này Mahāmati! Trong điều này, Ông hãy tự mình, bằng Trí Tuệ mà khảo nghiệm kỹ lưỡng, và khiến cho những người khác cùng thực hành giống như thế, đừng để bản thân bị điều khiển dẫn dắt bởi người khác.

Do đó,  [Như Lai] tuyên thuyết rằng:

“Năm pháp, cùng tự tính,
Tám thức, hai vô ngã.
Hết thảy nó đều thâu nhiếp Đại thừa. //5//
“Từ mô tả” và “tín hiệu”,
Cùng với "cấu trúc mang tính ngôn ngữ”,
Đây là hai hình thái đầu của Tự tính.
Chánh trínhư như,
Đây là hình thái của viên thành thật[12]. //6//"

 

PN. dịch và chú.

*Phần chú thích:

[1]
 Skt. nimitta, hình tướng, dấu hiệu hay tín hiệu. Cf. Sphut., tr. 48: nimittaṃ vastuno’ vasthāviśeṣo, «tín hiệu,  là phần vị sai biệt của những  vật thể.», Phổ thông Hán dịch là: tướng 相; hoặc tượng 像. Phân biệt với tướng skt, lakṣaṇa là yếu tính, trạng thái hay đặc điểm, và tướng, từ skt.nimitta là dấu hiệu hay tín hiệu.

[2] Dịch theo chữ  Anh: “verbal construction” của T. Lê Mạnh Thát, dùng để dịch chữ vikalpa trong The Philosophy of Vasubandhu, 2003, tr. 284.

[3] Cf. Hiển dương 6 (tr.  507a17tt.): tướng (nimitta/tín hiệu), nếu  nói ngắn gọn,  là  y xứ của hết thảy mọi ngôn thuyết (abhilāpa)

[4] Ibid., Danh (nāma), là từ  mô tả , y cứ nơi các tướng. Nguyên trong Hiển Dương dùng chữ Hán: tăng ngữ, Skt. Adhivacana: từ mô tả, từ phác họa.

[5] Cf. Văn dịch của Suzuki trong The Laṅkāvatāra Sūtra, chương 6, mục LXXXIV:  “saying this is mind and this is what belongs to it”. Cùng tác  giả nhưng  trong  Studies in the Lankavatara Sutra, p.58, New Delhi, 1998, dịch có khác: “This is it”, ''This is no other”: Đây chính là nó, đây không phải là cái gì khác.

[6] Skt. Āpta, nghĩa đen là cái bị vươn tới, bị bắt kịp, Hán dịch: Tương ưng 相應. Kosa.i: Āpta aviyuktaḥ, hệ nghĩa là hệ thuộc. Câu-xá bản Chân Đế (T29n1559, tr.0167b29): 相應是有義。不相離義  tương ưng nghĩa là có, nghĩa là không tách rời nhau.

[7] Cf. Hiển dương 6 (tr.  507a17tt.): Phân  biệt (vikalpa= cấu trúc + mang tính ngôn ngữ/mang tính khái niệm), là  tâm  và  tâm sở hệ  thuộc  ba  giới.

[8] Cf. Nhiếp  luận  (Vô  Tính)  6  tr. 351b9,  b14:  Trước  hết,  suy  cầu về  danh, về  nghĩa, về tự tính, về  sai  biệt,

rằng  đó  chỉ  là  khái  niệm  giả  thác (prajñapti);  sau  đó,  biệt một  cách  như  thật rằng sự  chân  thật  như thế

không  thể nắm bắt.  Trong  khi  suy cầu, gọi  là  tầm tư.  Khi  biết  như  thật  là bất  khả  đắc, lúc ấy gọi  là bốn

như thật trí. Tức là sơ vị (bước đầu) gọi là tầm tư, hậu vị (kết quả) gọi như thật trí.

[9] Theo Suzuki, Studies., ibdid.p.165,p. 421, nói rằng từ skt. buddhi trong câu này chính là Pratishthapikabuddhi hay vikalpa-lakshana- grahabhinivesa –pratishthapikabuddhi,  tức kiến lập trí, và giải thích là: cái trí mà y theo đó một mệnh đề được thiết lập ( the intelligence where by a proposition is setup).

[10] Cf. Hiển dương 6 (tr.  507a17tt.): Chân như (tathatā/ như như), là sở hành của Thánh  trí (āryajñānagocara) được biểu thị bởi pháp  vô  ngã,  chẳng phải  là y xứ của hết thảy ngôn  thuyết.

[11] Ibid., Chính trí (samyagjñāna),  vắn tắt có hai: thế gianxuất thế gian.

[12] Skt. pariniṣpanna, Hán dịch là viên thành thật, triển chuyển, Cf. Nhiếp  luận bản,  tr.  138a15:  “viên  thành  thật,  đó  là sự  tuyết  đối  vô thể (không tồn tại/vô hữu tính) của  đối tượng, giống như  là  ảnh tượng tương tợ nơi y tha khởi.  Nhiếp luận 2,  tr. 139b16:  “viên thành thật, nghĩa là  ở nơi  y  tha  mà  không  hiện  khởi ảnh tượng dối trá. Do đó, khi y tha bị biến kế, thì gián tiếp viên thành thật cũng bị biến kế.” Madhyānta,  k.i.  6,  Thế  Thân: grāhyagrāhakābhāvaḥ pariniṣpannaḥ svabhāvaḥ, cái mà nơi đó không tồn tại đối tượng nắm bắt (sở thủ) và chủ thể nắm bắt(năng  thủ),  đó  là tự  tính  viên  thành  thật.  Tham chiếu Sthiramatinirvikārapariniśpattyā’  viparītapariniśpattyā  ca pariniṣpannatvāt  parinṣpanna  ucyate,  vì bởi  tính  hoàn  chỉnh, với sự  hoàn  chỉnh  không  biến thể,  và sự hoàn chỉnh không lộn ngược, nó được gọi là cái hoàn chỉnh, tức viên thành thật. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9083)
Thần thông của Đức Phật là một trong những đề tài thu hút người viết và lôi cuốn người đọc. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này.
(Xem: 7987)
Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ), người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục, người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời, và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
(Xem: 16163)
Khoa học thần kinh ngày hôm nay đã chứng minh một cách khách quan và cụ thể rằng chánh niệm (samma-sati) là con đường trực tiếp nhất để gạt bỏ vọng tưởng về cái "ta"
(Xem: 15702)
Trong các ngành khoa học, rất có thể khoa học thần kinh (neurosciences) sẽ là ngành phát triển mạnh và gây nhiều ảnh hưởng nhất trong những thập niên tới.
(Xem: 7934)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 7943)
Từ trước đến nay không có một tôn giáo, triết họctâm lý học nào phân tích tâm đầy đủ rõ ràng như Phật Giáo.
(Xem: 8663)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc.
(Xem: 7825)
Kinh Hoa sen pháp diệu là dịch nghĩa từ tiếng Phạn Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, và được dịch ra tiếng Trung Hoa bởi nhiều dịch giả.
(Xem: 7426)
Chẳng đồng nhất, chẳng dị biệt, chẳng đoạn diệt, chẳng thường hằng: đây là các giáo pháp bất tử của chư Phật, chư thượng thủ của thế giới.
(Xem: 9272)
Theo Phật Giáo, tâm tư duy (Tâm phan, như vệ tinh quả đất, định tinh mặt trời, và vô lượng thiên hà) có thể sinh ra trong không gian thời gian...
(Xem: 8532)
Trong cuốn giáo thuyết về linh hồn của Phật Giáo, Soul theory of the Buddhist, Giáo Sư Stcherbatsky, ghi nhận rằng...
(Xem: 8564)
Bất kì một sự vật gì tùy thuộc vào một nguyên nhân thì duyên hội thành một hiệu quả.
(Xem: 11840)
Đức Phật đã giải thích nguồn gốc của thế giới, vũ trụ, vạn vật, là do nghiệp quả (cause & effect) hấp dẫn cùng với sức thu hút bởi 12 nhân duyên
(Xem: 7460)
Ngũ uẩn hay là Ngũ ấm chỉ là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm...
(Xem: 8240)
Tạng Quang Minhcon đường đi của ánh sáng, cùng với năng lượng (chân hỏa tam muội, energy) và sắc tướng (mass) là phương tiện thần thông để du hành trong vũ trụ.
(Xem: 11648)
Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi?
(Xem: 7376)
Phật Pháp được chia ra làm bốn thể loại là Giáo, Lý, Hành và Quả.
(Xem: 8935)
Tâm người bị ba thứ độc tố trói buộc, chính vì vậy chúng ta không sao vượt thoát được cảnh trầm luân khốn khổ. Chúng ta bị mắc kẹt trong phiền não của ba độc
(Xem: 8377)
Trong ý niệm này là sự bất biến thiên được hiểu như là một sự tướng trạng hoá của thật tướng của các sự vật.
(Xem: 9992)
Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong...
(Xem: 9634)
"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" là một câu kinh rất ngắn trong cả quyển kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật rất nổi tiếng được giới học Phật trích dẫn nhiều nhứt.
(Xem: 9563)
Mọi tồn tại đều vốn có Tự tính (như là bản chất) của nó. Vì rằng cái thành lập ra nó là Nhân tạo tác (Nhân) và Điều kiện tạo tác (Duyên) cũng tồn tại,
(Xem: 10514)
Giai đoạn đầu của Phật giáo Đại thừa được thể chứng qua sự hình thành và phát triển một văn hệ đồ sộ là Bát-nhã ba-la-mật-đa (prajñāpāramitā).
(Xem: 10088)
Căn bản trung quán luận tụng (Mūlamadhyamaka-kārikā) là một bộ luận chính trong ngôi nhà đồ sộ tráng lệ Trung Quán.
(Xem: 8177)
Cộng đồng nhân loại đã đến một điểm nghiêm trọng trong lịch sử của nó. Thế giới ngày nay khiến chúng ta phải chấp nhận nhân loại là một.
(Xem: 20168)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 8049)
Trong thế giới này cá nhân không hiện hữu, ngã cũng không hiện hữu, bởi vì chúng là các sự vật duyên khởi.
(Xem: 8526)
Đối tượng chấp thủ của tâm chấm dứt (tâm hành xứ diệt), Con đường ngôn ngữ không có lối vào (ngôn ngữ đạo đoạn).
(Xem: 9394)
Đấng Toàn Giác biết đã đến lúc sắp kết thúc kiếp sống này của Ngài. Nhưng trước khi nhập diệt, Đức Phật muốn
(Xem: 9250)
Ngã được nói đến, Để phân biệt với vô ngã. Chư Phật dạy thật tướng các pháp, Không có ngã, không có vô ngã.
(Xem: 7697)
Để giúp độc giả, tôi sẽ trình bày một bản tổng hợp giáo lý của các thuyết phục chính yếu về tôn giáotriết học của ngài Long Thọ.
(Xem: 8323)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn?
(Xem: 8165)
Do vô minh che lấp, chúng sinh tạo ba hành, nên theo ba hành nghiệp (thân, ngữ, tâm) vào luân hồi sáu cõi.
(Xem: 8984)
Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”.
(Xem: 8728)
Chúng ta phải hỏi điểm xuất phát là gì, chủ đề là gì, và quan tâm tối hậu của bộ luận tuyệt vời này là gì.
(Xem: 8567)
Chúng ta đang tiến dần đến đỉnh cao vĩ đại của Giáo Pháp, và mặc dù có những nguy hiểm đáng sợ đang đe doạ thế giới chúng ta.
(Xem: 10141)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hoá dân gian như...
(Xem: 8092)
Năm giớimười điều thiện được xem là cơ sở thiết lập đạo đức Phật giáo thì giới thứ hai “Không trộm cắp” là nhằm đảm bảo tính công bình và hướng tâm con người đi đến sự vô tham, vô sân, vô si.
(Xem: 8798)
Một khi tâm giác ngộ đã phát sinh, hạt giống của giáo pháp sẽ tiếp tục lớn mạnh cho dù...
(Xem: 8423)
Nếu chúng ta có một sự sân hận lớn dễ bùng nổ và chưa rèn luyện chính mình một cách thích đáng, thế nên khi chúng ta cố gắng để...
(Xem: 7591)
Nguyên lý ở đây, là nguyên lý vô ngã, của Pháp duyên khởi, nguyên lý này ở chỗ khác, Pháp Hoa còn gọi là “vốn thường hằng tịch diệt”:
(Xem: 7493)
Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiênniết bàn / bản tính niết bàn (prakrtiparinirvana; natural nirvana), vượt ngoài sầu muộn...
(Xem: 9471)
Phật giáo không bao giờ có khái niệm cõi âm hay là âm phủ. Có thể đây là những từ ngữ của tín ngưỡng dân gian
(Xem: 9830)
Tự lựctha lực là những khái niệm được đề cập rất nhiều trong Phật giáo. Những khái niệm này bao trùm...
(Xem: 8502)
Ba truyền thống Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng đều cho rằng Phật tánh hay Như Lai tạng là lần thuyết pháp sau cùng và cũng là cực điểm của kinh điển.
(Xem: 12237)
Tại sao gọi Tánh không duyên khởi? Nhà Phật nói tất cả pháp Tánh không, do duyên hợp thành các pháp.
(Xem: 9597)
Trước khi trở lại Tâm Kinh, hãy thử tìm hiểu thuyết vô ngã qua kiến giải của nhiều bộ phái khác nhau trong Phật giáo để...
(Xem: 7523)
Giáo huấn được mở rộng vô hạn và được tuyên thuyết đến vô lượng chúng sanh khắp các loài đủ các tính khí.
(Xem: 8804)
Sự “chuyển phước” như chỉ là một phép ẩn dụ phần nào đẹp để chỉ những gì xảy ra đối với những ảnh hưởng của hành động có kết quả tốt (puṇya), điều được gọi là “thiện nghiệp”
(Xem: 16820)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 8969)
Theo quan điểm của Phật Giáo thì mục đích của lễ bái là nhằm giúp chúng ta đến gần hơn với Đức Phật.
(Xem: 13209)
Phật giáophương cách dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân hận oán hờn, đó là phương thuốc diệt khổ cho vui,
(Xem: 19721)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 8594)
Dưới đây là một bài viết của học giả Phật giáo Philippe Cornu, và cũng là bài mở đầu trong tập san "Hướng nhìn Phật giáo" (Regard Bouddhiste)...
(Xem: 9181)
Đối với Phật giáo, dana - việc bố thí - giữ một vai trò thật quan trọng, bởi vì nếu ngay từ lúc mới khởi sự tu tập mà không thực thi việc bố thí thì sẽ ...
(Xem: 8271)
“Tất cả ba cõi chỉ là Một Tâm”. Phẩm Dạ-ma cung kệ tán nói, “Như tâm, Phật cũng vậy. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật, và chúng sanh. Cả ba không sai khác”.
(Xem: 10149)
“Theravāda Tantra”, hay “esoteric practices of Theravāda ” là những thuật ngữ mà các học giả phương tây sử dụng để gọi các pháp hành mang tính bí truyền của...
(Xem: 9792)
Nghiệp quả: Quả chín (trên năm uẩn), * Quả tương đương với nhân,# Nghiệp quả qua hoàn cảnh
(Xem: 14988)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 7843)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant