Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Các Hữu TìnhBản Tính Tự NhiênNiết Bàn

15 Tháng Mười Hai 201510:43(Xem: 7492)
Các Hữu Tình Có Bản Tính Tự Nhiên Là Niết Bàn

CÁC HỮU TÌNHBẢN TÍNH TỰ NHIÊNNIẾT BÀN

Đặng Hữu Phúc


Các Hữu Tình Có Bản Tính Tự Nhiên Là Niết Bàn

Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiênniết bàn / bản tính niết bàn (prakrtiparinirvana; natural nirvana), vượt ngoài sầu muộn, vượt ngoài tầm với của đau khổ, nên đều được giải thoát. Điều này được Ngài Tịch Thiên (685-763) giải thích trong Con đường Bồ Tát.  

IX. 102.  Tâm thì không có vị trí trong các căn/năng lực cảm giác (sense faculties), cũng không trong sắc tướng (form) và các đối tượng cảm giác khác (other sense-objects), cũng không ở khoảng giữa chúng. Tâm cũng không được tìm thấy bên trong, bên ngoài, cũng không bất kì đâu khác.

IX. 103. Tâm thì không ở trong thân, cũng không bất kì nơi khác, cũng không trộn lẫn, cũng không đứng riêng một nơi nào, là bản vô, nghĩa là không hiện hữu tự tính [= không một vật / bản vô /chân như / như như]. Thế nên, các hữu tình do bản chất đều được giải thoát [= đều là niết bàn tịch tĩnh].

[IX.103 That which is not in the body nor anywhere else, neither intermingled nor somewhere separate, is nothing. Therefore, sentient beings are by nature liberated.|| Translated from Sanskrit by Vesna A. Wallace and B. Alan Wallace).

[IX.103 What is not in the body nor elsewhere, neither intermingled nor separate anywhere, that is nothing. Therefore living beings are inherently liberated.|| Translated from Sanskrit by Kate Crosby and Andrew Skilton]   

*

Prajnakaramati (950-1030) viết Panjika (Giải thích Con đường Bồ tát của Tịch Thiên):

Tâm thì không ở trong thân cũng không ở nơi nào khác ngoài thân, tâm cũng không trộn lẫn giữa hai cái này, thân và sự vật bên ngoài, cũng không li cách với thân và hiện diện ở một nơi khác, về phương diện tối hậu là bản vô/chân như, đó là, nó không hiện hữu một cách tự tính. Nó chỉ được tượng trưng bởi cấu trúc của tưởng. Tâm luân hồi cho ấn tượng tương tự một huyễn tượng bởi vì nó chẳng có một bản chất tự tính. Bởi vì lí do đó, các hữu tình được giải thoát do bởi bản chất, bởi vì bản tính niết bàn (prakrti-nirvana; natural nirvana), nó có tướng trạng của không có bản chất tự tính, thì luôn luôn hiện diện trong các dòng tâm thức của tất cả các hữu tình. [Panjika, pp. 245-246]

[According the Panjika, pp.245-246, the mind that is not in the body nor somewhere else outside the body, that is neither intermingled between the two, the body and the outside thing, nor separate from the body and present somewhere else, is ultimately nothing, that is it does not truly exist. It is only presented by mental fabrication. The samsaric mind appears like an illusion because it lacks an intrinsic nature. For that reason, sentient beings are liberated by nature, because the natural nirvana (prakrti-nirvana), which has the characteristic of the absence of intrinsic nature, is always present in the streams of consciousness of all beings.|| A Guide to Boddhisattva Way of Life. Translated from Sanskrit and Tibetan by Vesna A. Wallace and B. Alan Wallace]

*

Đức Đạt Lai Lạt Ma trong Pháp thoại Trí Tuệ Siêu Việt (Transcendental Wisdom 1979) giảng chương 9 của Con đường Bồ tát của Tịch Thiên, giảng kệ tụng 103 :

“Tâm không hiện hữu một cách tự tính trong bản chất của thân, cũng không trong nơi nào khác, cũng không là một trộn lẫn với thân, cũng không cách biệt với thân (nor on its own apart from the body). Nếu đối tượng được đặt tên, tâm, được tìm kiếm, bạn khám phá rằng nó không hiện hữu một cách độc lập. Như vậy, hữu tình do bản chất được giải thoát”.

Đức Đạt Lai Lạt Ma trong Pháp thoại 1993  giảng về Con đường Bồ tát của Tịch Thiên  (Tu Tập Trí Tuệ Siêu Việt /Practicing Wisdom. Đặng Hữu Phúc dịch), giảng kệ tụng 103:

“Tâm không thể hiện hữu trong thân, là thân (trong vai trò là thân), hoặc ở khoảng giữa hai điều trên; tâm cũng không thể hiện hữu độc lập với thân. Một tâm như thế không thể tìm thấy được; thế nên tâm khônghiện hữu tự tính. Và khi các hữu tình công nhận bản chất này của tâm, giải thoát có thể duyên hội xảy ra.

Mặc dù chúng ta biết rằng tâm thức hiện hữu [nhưng không có hiện hữu tự tính], nếu chúng ta phân tích và cố gắng định vị trí nó trong các sát na trước hoặc tiếp theo của tương tục của nó, ý niệm về tâm thức là một đơn vị hiện thể (entity) bắt đầu biến mất, giống như với sự phân tích về thân. Xuyên qua sự phân tích như thế, chúng ta đi tới sự không có hiện hữu tự tính của tâm thức. Điều này cũng áp dụng như nhau đối với các trải nghiệm giác quan, tỉ dụ các tri nhận do mắt, vì chúng cũng chia sẻ bản chất chung”.

*

Patrul Rinpoche (1808-1887) giảng kệ tụng 103 như sau:

Bất kỳ cái gì là thân thì không là tâm. Nhưng trong khi tâm không được tìm thấy cách biệt với thân, như thể nó ở trong các đối tượng bên ngoài, cũng không phải nó trộn lẫn và hợp làm một với thân. Nhưng bởi vì nó không thể có một hiện hữu độc lập, cũng không cách biệt với thân, dù chỉ là tí chút, thế nên bản văn Tịch Thiên. Con đường Bồ tát nói: “Các hữu tình do bản chất của chúng thì vượt ngoài tầm với của đau khổ” (Beings by their nature are beyond the reach of suffering”.  Kinh Bảo Tích (Ratnakuta) nói: Tâm không ở bên trong; tâm không ở bên ngoài; cũng không ở cả hai bên trong bên ngoài. Bạn không thể chỉ thẳng vào nó (The mind is not within; the mind is not without; neither is it both. You cannot point to it). Và sau đó lời kinh nói tiếp: “Này Ca Diếp, ngay cả tất cả chư Phật chưa bao giờ thấy nó! Chư Phật không thấy nó và chư Phật sẽ không bao giờ sẽ thấy nó” (O Kashyapa -- even all the Buddhas have never seen it! They do not see it and they never shall ! ). Và kinh Bát nhã ba la mật tám ngàn tụng nói “Tâm thực ra không là một “tâm”; bản chất của tâm là quang minh giác chiếu” (The mind indeed is not a mind”; the nature of the mind is lucent clarity) .

(The Nectar of Manjushri’s Speech. A detailed Commentary on Shantideva’s Way of the Bodhisattva . Kunzang Pelden. Shambhala 2007. Cam lộ của Diệu Ngữ của Văn Thù Sư Lợi. Giải thích Con đường Bồ tát của Tịch Thiên. Patrul Rinpoche giảng. Kunzang Pelden ghi)     

*  

Ngài Tịch Thiên giải thích bản chất của các hữu tình là Như tính / Tính không, nghĩa là không có hiện hữu tự tính, có bản tính tự nhiênNiết bàn, thế nên hết thảy các hữu tình đều được giải thoát.

Về Như tính (Suchness), Jeffrey Hopkins giải thích:

‘Như tính’ quy chỉ vào ‘tính không’ bởi vì bất kể chư Phật xuất hiện hay không thì bản chất của các hiện tượng vẫn là như thế. Một như tính thì cũng là ‘bản tính niết bàn’ (natural nirvana; prakrtiparinirvana) mà không quy chỉ tới một thông lộ hiện hoạt vượt trên sầu muộn (actual passage beyond sorrow), đó là, một sự vượt qua các phiền não, nhưng nó quy chỉ vào một tính không, tính không này một cách bản nhiên vượt ngoài sự hiện hữu tự tính. Giáo pháp nói rằng các hiện tượng sinh tử luân hồi đều là các đơn vị hiện thể (entities) đồng nhất với các bản tính niết bàn, hoặc các tính không, và không phải là các hiện thể khác biệt. Điều này không có nghĩa là không có sự khác biệt giữa bị phiền não do ý niệm hiện hữutự tính và không bị phiền não do ý niệm hiện hữu tự tính.

(Jeffrey Hopkins. Meditation on Emptiness. Wisdom 1996. p. 218-219)

Suchness

Suchness refers to “emptiness” because whether Buddhas appear or not the nature of of phenomena remain as such. A suchnessis also a ‘natural nirvana’ (prakrtiparinirvana) which does not  refer to an actual passage beyond sorrow, that is, an overcoming of the afflictions, but to an emptiness itself that naturally passed beyond inherent existence. The teaching that cyclic existence  and nirvana  are not different means that the phenomena of cyclic existence are the same entities as their natural nirvanas, or emptinesses, and not separate entities. It does not mean there is no difference  between being afflicted with the conception of inherent existence and not being so afflicted.

( Jeffrey Hopkins. Meditation on Emptiness. Wisdom 1996. p. 218-219)

*

Như tính, Bản tính Niết bàn  của các hữu tình do ngài Tịch Thiên (c. 685-763) giải thích, hoà hợp với các kinh điển Phật Giáo, tỉ dụ Duy ma cật sở thuyết do ngài Cưu ma la thập dịch (khoảng năm 400), và Phật thuyết Vô Cấu Xưng do ngài Huyền Trang (596-664) dịch năm 645.

*Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết (Hán dịch: Cưu ma la thập. Việt dịch: Tuệ Sỹ)

Như Phật đã nói: Này tỳ kheo, ngươi nay tức thời vừa sinh, vừa già, vừa diệt. Nếu bằng vô sinh mà được thọ ký, thì vô sinhchính vị. Mà trong chính vị thì không có thọ ký, thì cũng không có sự chứng đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vậy làm sao Di lặc được thọ ký còn một lần tái sinh ? Ấy là bằng Như sinh [11] mà được thọ ký, hay bằng Như diệt mà được thọ ký? Nếu bằng Như sinh mà được thọ ký, thì Như vốn không sinh. Nếu bằng Như diệt mà được thọ ký thì Như vốn không diệt. Vì hết thảy chúng sinh đều là Như tính vậy. Hết thảy các pháp cũng là Như tính vậy. Các Hiền thánh cũng là Như tính vậy. Di lặc cũng là Như tính vậy. Như vậy nếu Di-lặc được thọ ký, thì hết thảy chúng sinh cũng đều được thọ ký. Vì sao? Vì Như vốn không hai, không khác [13].

Nếu Di-lặc chứng đắc giác ngộ tối thượng, thì hết thảy chúng sinh cũng chứng đắc giác ngộ tối thượng. Vì sao? Vì hết thảy chúng sinh là tướng của Bồ đề [14].

Nếu Di-lặc mà diệt độ, thì hết thảy chúng sinh cũng diệt độ[15]. Vì sao ? Chư Phật biết rõ hết thảy chúng sinh rốt ráo tịch diệt, tức là tướng bồ đề, không còn gì để diệt nữa [16].

[11] VKN Sanskrit, tathatotpadena…tathatanirodhena, được thọ ký bằng sự sinh khởi của Như tính, bằng sự tịch diệt của Như tính.

[13] VKN, na hi tathata dvayaprabhavita nanatvaprabhavita, thật vậy, Chân như không hiển hiện bởi nhị nguyên tính, không hiển hiện bởi đa thù tính.

[14] Bồ-đề tướng. Bản Huyền Trang: “Bồ-đề (bodhi) là điều được giác tri (anubuddha) một cách đồng đẳng bởi tất cả hữu tình”. [VKN, bản Sanskrit: sarvasattvanubodhohi bodhih, bồ đề là sự chứng giác của tất cả chúng sinh.

[15] Bản Huyền Trang: Bát-niết-bàn.

[16] Bản Huyền Trang: “Tính tịch tĩnh tự bản chất của hết thảy hữu tình tức là yếu tính của Niết-bàn, vì vậy Phật nói Chân như là Bát-niết-bàn. VKN: tathagatah…te sattvani pasyanti nirvanaprakrtikani, các Như Lai thấy mọi chúng sinh đều có bản tính tự nhiên là Niết-bàn.

*

PHẬT THUYẾT VÔ CẤU XƯNG KINH
Hán Dịch: Đại Đường, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang - (dịch năm 645)
Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Nguyên

 

“ Như đức Thế Tôn đã nói: “Này Tỳ kheo các ông! Sanh già chết trong mỗi sát na. Chết đó rồi sanh đó. Nếu vì vô sanh mà được thọ ký thì vô sanh tức là đã nhập vào chánh tánh. Khi vô sanh này đã nhập trong chánh tánh thì không có vấn đề thọ ký, cũng không chứng đắc Chánh Đẳng Bồ đề.

Vậy làm sao Từ Thị được thọ ký? Theo Như sanh được thọ ký hay theo Như diệt mà được thọ ký? Nếu theo Như sanh được thọ ký thì Như không có sanh. Nếu theo Như diệt được thọ ký thì Như không có diệt. Không sanh không diệt theo trong Lý Chơn Như thì không có vấn đề thọ ký.

Tất cả hữu tình đều Như, tất cả các pháp cũng đều Như, tất cả Hiền Thánh cũng đều là Như, cho đến Từ Thị cũng là Như. Nếu tôn giả Từ Thị được thọ ký thì tất cả hữu tình cũng sẽ được thọ ký như vậy. Vì sao? Vì Chơn Như chẳng phải sự hiển bày của hai, cũng chẳng phải sự hiển bày các tánh khác.

Nếu tôn giả Từ Thị chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì tất cả hữu tình cũng sẽ được chứng như vậy. Vì sao? Vì đối với Bồ đề thì tất cả hữu tình đều giác ngộ như nhau. Nếu tôn giả Từ Thị Bát Niết bàn thì tất cả hữu tình cũng sẽ Bát Niết bàn. Vì sao? Vì chẳng phải hữu tình thì không Bát Niết bàn. Đức Phật nói Chơn NhưBát Niết bàn, vì Ngài quán sát thấy bản tánh của các hữu tình đều tịch tịnh, đó là tướng Niết bàn. Thế nên nói Chơn NhưBát Niết bàn.

*

The Holy Teaching of Vimalakirti. Translated from Tibetan by Robert Thurman.  

Như Phật đã nói, ‘Các Tỳ kheo, trong một sát na, các ông sinh, các ông già, các ông chết, các ông chuyển cư, và các ông tái sinh’.  ‘Vậy thì sự thọ ký có thể do sự không sinh? Nhưng khi sự không sinh nhập vào tính tối hậu, trong tính tối hậu đó chẳng có sự thọ ký cũng chẳng có thành tựu chánh đẳng chánh giác’. ‘Thế nên, Di-lặc, như tính /pháp tính của ông do sinh? hoặc nó do diệt?  Như tính của ông như được thọ ký thì không sinh và không diệt, cũng chẳng sẽ sinh  cũng chẳng sẽ diệt. Hơn nữa, như tính của ông hoàn toàn giống như như tính của tất cả chúng sinh, như tính của tất cả các sự-sự vật-vật, và như tính của tất cả các hiền thánh.  Nếu sự giác ngộ của ông có thể được thọ ký theo cách thức như thế, thì sự thọ ký của tất cả các chúng sinh cũng có thể theo cách thức như thế. Tại sao? Bởi vì như tính không có tính nhị nguyên hoặc tính khác biệt.  Di-lặc, bất kỳ khi nào ông thành tựu Phật quả, đó là chánh đẳng chánh giác, thì đồng thời tất cả chúng sinh sẽ cũng  thành tựu giải thoát tối hậu. Tại sao?  Các Như Lai không nhập giải thoát tối hậu cho tới khi mà tất cả chúng sinh đều đã nhập giải thoát tối hậu.  Do, bởi vì tất cả chúng sinh được hoàn toàn giải thoát, các Như Lai thấy chúng sinhbản chất của giải thoát tối hậu”.

*

For the Buddha has declared, "Bhikshus, in a single moment, you are born, you age, you die, you transmigrate, and you are reborn." "Then might the prophecy concern birthlessness?  But birthlessness applies to the stage of destiny for the ultimate, in which there is neither prophecy nor attainment of perfect enlightenment". 'Therefore, Maitreya, is your reality from birth?  Or is it from cessation?  Your reality as prophesied is not born and does not cease, nor will it be born nor will it cease. Furthermore, your reality is just the same as the reality of all living beings, the reality of all things, and the reality of all the holy ones. If your enlightenment can be prophesied in such a way, so can that of all living beings. Why? Because reality does not consist of duality or of diversity. Maitreya, whenever you attain Buddhahood, which is the perfection of enlightenment, at the same time all living beings will also attain ultimate liberation. Why? The Tathagatas do not enter ultimate liberation until all living beings have entered ultimate liberation. For, since all living beings are utterly liberated, the Tathagatas see them as having the nature of ultimate liberation. "

*

Đại sư Tăng Triệu (374 - 414) (có sách ghi tịch lúc 31) trong Triệu luận, phần Tông Bản Nghĩa:

“Bổn vô, Thật tướng, Pháp tánh, Tánh không, Duyên hội, năm danh từ trên vốn chỉ có một nghĩa. Để vạch ra tông chỉ chánh phápcăn bản của bổn Luận, hai chữ Bổn Vô chỉ ngay tâm tịch diệt vốn không một pháp, lìa tất cả tướng, dứt bặt Thánh phàm, nên gọi là Bổn Vô, chẳng phải có ý làm thành vô [có nghĩa là chẳng phải từ hữu lần biến thành vô, vì Bổn Vô này nó vượt ngoài cái có và không tương đối. Thích Duy Lực]. Vì tất cả pháp đều do vọng tâm tùy duyên biến hiện mà có, tâm vốn vô sanh, chỉ do nhân duyên hội hợp mà sanh nên gọi là DUYÊN HỘI.
duyên sanh ra các pháp, vốn không có thật thể, do nhân duyên sanh ra nên nói không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, vì pháp thểchơn như biến hiện nên gọi là PHÁP TÁNH. Do chơn như pháp tánh mà thành các pháp, chơn như không có tướng, nên bản thể các pháp tịch diệt, nên gọi là THẬT TƯỚNG.
Vì bổn vô là thể của tâm, duyên hội là dụng của tâm, thật tướng, pháp tánh, tánh không, đều là cái nghĩa do tâm tạo thành vạn pháp nên nói là một nghĩa vậy …
Tại sao vậy? Tất cả các pháp đều do nhân duyên hội hợp mà sanh, duyên hội mà sanh thì khi chưa sanh không có, duyên lìa thì diệt, nếu mà thật có, có thì chẳng diệt. Theo đó mà suy ra thì biết, dù nay hiện ra có, cái có ấy tánh thường tự không, vì tánh thường tự không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, bởi vì tánh không nên gọi PHÁP TÁNH, pháp tánh chân thực như thế nên gọi là THẬT TƯỚNG, thật tướng vốn không có tự thể, chẳng phải do suy lường mà cho đó là không, nên gọi là Bổn Vô.”

(Chú thích: Bản Vô, từ ngữ dịch thời ngài Cưu Ma La Thập, về sau được dịch là Chân Như)

(Trích từ Triệu Luận Lược giải. Thích Duy Lực dịch, trong CHƯ KINH TẬP YẾU, trang 470 - 471)

*

Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiên là niết bàn/ bản tính niết bàn, vượt ngoài sầu muộn, vượt ngoài tầm với của đau khổ, nên đều được giải thoát. Niềm vui này đã được giới thiệu qua Kinh Duy Ma Cật / Kinh Vô Cấu Xưng, và qua Con đường Bồ tát của Tịch Thiên.

Em chợt thấy yêu đời vô cùng tận
Vì đời là rất mực thiêng liêng
Em chợt thấy không buồn đau oán giận
Thiêng liêng không chia biệt cõi miền
(Bùi Giáng)  

Với bản tính tự nhiênniết bàn, chúng ta nên tỉnh biết, và nhớ lời ngài Vô Trước giảng trong Luận Du Già Sư Địa: Si, Ngu si, Vô minh, Vô trí, Vô kiến, Vô hiện quán, Hôn muội, Hắc ám … là đồng nghĩa.

Hãy sống với tính Bản Phật Phổ hiền của mình (The nature of the Primordial Buddha Samantabhadra; Phổ Hiền: All-around Goodness)

TỜ CŨ

Bây giờ tờ cũ đổi tên
Ấy là tờ mới mênh mông lạ lùng
Vô bờ vô bến vô chung
Kể từ vô thủy thung dung đi về
(Bùi Giáng)

Đặng Hữu Phúc

Sydney,  13.12.2015

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9083)
Thần thông của Đức Phật là một trong những đề tài thu hút người viết và lôi cuốn người đọc. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này.
(Xem: 7986)
Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ), người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục, người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời, và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
(Xem: 16162)
Khoa học thần kinh ngày hôm nay đã chứng minh một cách khách quan và cụ thể rằng chánh niệm (samma-sati) là con đường trực tiếp nhất để gạt bỏ vọng tưởng về cái "ta"
(Xem: 15702)
Trong các ngành khoa học, rất có thể khoa học thần kinh (neurosciences) sẽ là ngành phát triển mạnh và gây nhiều ảnh hưởng nhất trong những thập niên tới.
(Xem: 7934)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 7943)
Từ trước đến nay không có một tôn giáo, triết họctâm lý học nào phân tích tâm đầy đủ rõ ràng như Phật Giáo.
(Xem: 8663)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc.
(Xem: 7825)
Kinh Hoa sen pháp diệu là dịch nghĩa từ tiếng Phạn Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, và được dịch ra tiếng Trung Hoa bởi nhiều dịch giả.
(Xem: 7426)
Chẳng đồng nhất, chẳng dị biệt, chẳng đoạn diệt, chẳng thường hằng: đây là các giáo pháp bất tử của chư Phật, chư thượng thủ của thế giới.
(Xem: 9271)
Theo Phật Giáo, tâm tư duy (Tâm phan, như vệ tinh quả đất, định tinh mặt trời, và vô lượng thiên hà) có thể sinh ra trong không gian thời gian...
(Xem: 8530)
Trong cuốn giáo thuyết về linh hồn của Phật Giáo, Soul theory of the Buddhist, Giáo Sư Stcherbatsky, ghi nhận rằng...
(Xem: 8564)
Bất kì một sự vật gì tùy thuộc vào một nguyên nhân thì duyên hội thành một hiệu quả.
(Xem: 11840)
Đức Phật đã giải thích nguồn gốc của thế giới, vũ trụ, vạn vật, là do nghiệp quả (cause & effect) hấp dẫn cùng với sức thu hút bởi 12 nhân duyên
(Xem: 7458)
Ngũ uẩn hay là Ngũ ấm chỉ là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm...
(Xem: 8239)
Tạng Quang Minhcon đường đi của ánh sáng, cùng với năng lượng (chân hỏa tam muội, energy) và sắc tướng (mass) là phương tiện thần thông để du hành trong vũ trụ.
(Xem: 11648)
Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi?
(Xem: 7376)
Phật Pháp được chia ra làm bốn thể loại là Giáo, Lý, Hành và Quả.
(Xem: 8935)
Tâm người bị ba thứ độc tố trói buộc, chính vì vậy chúng ta không sao vượt thoát được cảnh trầm luân khốn khổ. Chúng ta bị mắc kẹt trong phiền não của ba độc
(Xem: 8377)
Trong ý niệm này là sự bất biến thiên được hiểu như là một sự tướng trạng hoá của thật tướng của các sự vật.
(Xem: 9992)
Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong...
(Xem: 9634)
"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" là một câu kinh rất ngắn trong cả quyển kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật rất nổi tiếng được giới học Phật trích dẫn nhiều nhứt.
(Xem: 9563)
Mọi tồn tại đều vốn có Tự tính (như là bản chất) của nó. Vì rằng cái thành lập ra nó là Nhân tạo tác (Nhân) và Điều kiện tạo tác (Duyên) cũng tồn tại,
(Xem: 10514)
Giai đoạn đầu của Phật giáo Đại thừa được thể chứng qua sự hình thành và phát triển một văn hệ đồ sộ là Bát-nhã ba-la-mật-đa (prajñāpāramitā).
(Xem: 10087)
Căn bản trung quán luận tụng (Mūlamadhyamaka-kārikā) là một bộ luận chính trong ngôi nhà đồ sộ tráng lệ Trung Quán.
(Xem: 8177)
Cộng đồng nhân loại đã đến một điểm nghiêm trọng trong lịch sử của nó. Thế giới ngày nay khiến chúng ta phải chấp nhận nhân loại là một.
(Xem: 20168)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 8049)
Trong thế giới này cá nhân không hiện hữu, ngã cũng không hiện hữu, bởi vì chúng là các sự vật duyên khởi.
(Xem: 8526)
Đối tượng chấp thủ của tâm chấm dứt (tâm hành xứ diệt), Con đường ngôn ngữ không có lối vào (ngôn ngữ đạo đoạn).
(Xem: 9394)
Đấng Toàn Giác biết đã đến lúc sắp kết thúc kiếp sống này của Ngài. Nhưng trước khi nhập diệt, Đức Phật muốn
(Xem: 9250)
Ngã được nói đến, Để phân biệt với vô ngã. Chư Phật dạy thật tướng các pháp, Không có ngã, không có vô ngã.
(Xem: 7697)
Để giúp độc giả, tôi sẽ trình bày một bản tổng hợp giáo lý của các thuyết phục chính yếu về tôn giáotriết học của ngài Long Thọ.
(Xem: 8323)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn?
(Xem: 8164)
Do vô minh che lấp, chúng sinh tạo ba hành, nên theo ba hành nghiệp (thân, ngữ, tâm) vào luân hồi sáu cõi.
(Xem: 8984)
Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”.
(Xem: 8728)
Chúng ta phải hỏi điểm xuất phát là gì, chủ đề là gì, và quan tâm tối hậu của bộ luận tuyệt vời này là gì.
(Xem: 8567)
Chúng ta đang tiến dần đến đỉnh cao vĩ đại của Giáo Pháp, và mặc dù có những nguy hiểm đáng sợ đang đe doạ thế giới chúng ta.
(Xem: 10140)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hoá dân gian như...
(Xem: 8092)
Năm giớimười điều thiện được xem là cơ sở thiết lập đạo đức Phật giáo thì giới thứ hai “Không trộm cắp” là nhằm đảm bảo tính công bình và hướng tâm con người đi đến sự vô tham, vô sân, vô si.
(Xem: 8797)
Một khi tâm giác ngộ đã phát sinh, hạt giống của giáo pháp sẽ tiếp tục lớn mạnh cho dù...
(Xem: 8975)
Năm pháp, cùng tự tính, Tám thức, hai vô ngã. Hết thảy nó đều thâu nhiếp Đại thừa.
(Xem: 8422)
Nếu chúng ta có một sự sân hận lớn dễ bùng nổ và chưa rèn luyện chính mình một cách thích đáng, thế nên khi chúng ta cố gắng để...
(Xem: 7591)
Nguyên lý ở đây, là nguyên lý vô ngã, của Pháp duyên khởi, nguyên lý này ở chỗ khác, Pháp Hoa còn gọi là “vốn thường hằng tịch diệt”:
(Xem: 9471)
Phật giáo không bao giờ có khái niệm cõi âm hay là âm phủ. Có thể đây là những từ ngữ của tín ngưỡng dân gian
(Xem: 9829)
Tự lựctha lực là những khái niệm được đề cập rất nhiều trong Phật giáo. Những khái niệm này bao trùm...
(Xem: 8502)
Ba truyền thống Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng đều cho rằng Phật tánh hay Như Lai tạng là lần thuyết pháp sau cùng và cũng là cực điểm của kinh điển.
(Xem: 12237)
Tại sao gọi Tánh không duyên khởi? Nhà Phật nói tất cả pháp Tánh không, do duyên hợp thành các pháp.
(Xem: 9595)
Trước khi trở lại Tâm Kinh, hãy thử tìm hiểu thuyết vô ngã qua kiến giải của nhiều bộ phái khác nhau trong Phật giáo để...
(Xem: 7521)
Giáo huấn được mở rộng vô hạn và được tuyên thuyết đến vô lượng chúng sanh khắp các loài đủ các tính khí.
(Xem: 8804)
Sự “chuyển phước” như chỉ là một phép ẩn dụ phần nào đẹp để chỉ những gì xảy ra đối với những ảnh hưởng của hành động có kết quả tốt (puṇya), điều được gọi là “thiện nghiệp”
(Xem: 16820)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 8968)
Theo quan điểm của Phật Giáo thì mục đích của lễ bái là nhằm giúp chúng ta đến gần hơn với Đức Phật.
(Xem: 13209)
Phật giáophương cách dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân hận oán hờn, đó là phương thuốc diệt khổ cho vui,
(Xem: 19721)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 8593)
Dưới đây là một bài viết của học giả Phật giáo Philippe Cornu, và cũng là bài mở đầu trong tập san "Hướng nhìn Phật giáo" (Regard Bouddhiste)...
(Xem: 9181)
Đối với Phật giáo, dana - việc bố thí - giữ một vai trò thật quan trọng, bởi vì nếu ngay từ lúc mới khởi sự tu tập mà không thực thi việc bố thí thì sẽ ...
(Xem: 8271)
“Tất cả ba cõi chỉ là Một Tâm”. Phẩm Dạ-ma cung kệ tán nói, “Như tâm, Phật cũng vậy. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật, và chúng sanh. Cả ba không sai khác”.
(Xem: 10148)
“Theravāda Tantra”, hay “esoteric practices of Theravāda ” là những thuật ngữ mà các học giả phương tây sử dụng để gọi các pháp hành mang tính bí truyền của...
(Xem: 9791)
Nghiệp quả: Quả chín (trên năm uẩn), * Quả tương đương với nhân,# Nghiệp quả qua hoàn cảnh
(Xem: 14988)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 7843)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant