Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp - Tính Của Các Sự Vật

02 Tháng Hai 201610:16(Xem: 8377)
Pháp - Tính Của Các Sự Vật

Nguyệt Xứng
PHÁP - TÍNH CỦA CÁC SỰ VẬT

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc


Bản dịch Anh: Candrakirti. Lucid Exposition of the Middle Way. The Essential Chapters from the Prasannapada of Candrakirti. Translated from the Sanskrit by Mervyn Sprung in collaboration with T.R.V. Murti and U.S. Vyas. Routledge, 1979. ( pp 182-184)

*

Nhưng, ông hỏi, bản chất của thật tướng của các sự vật mà các giáo pháp của chư Phật trực nhập là gì ? Điều này được giải thích trong kệ tụng XVIII. 7 “Khi chẳng có đối tượng của tâm, thì chẳng có gì để ngôn ngữ quy chỉ tới”. Khi chấp thuận điều này, có thể có thêm các câu hỏi không? Dù điều này là như vậy, tuy thế, vẫn phải nói về thật tướng của các sự vật. Điều này được thực hiện bằng cách nói với ý niệm thứ nhì [= ý niệm thiết lập lí thuyết để nói về chân lí] (samaropatah). Mọi người chấp thuận thuật ngữ thế tục “thật” và “không thật” và v.v.,  chúng đến từ các diễn từ nói viết theo chân lí quy ước thế tục (vyavaharasatya).

Ngài Long Thọ diễn tả nó theo cách này.

XVIII. 9  Không tùy thuộc vào bất kì cái gì, tịch tĩnh, không hiển lộ trong vai trò các sự vật được đặt tên, vượt ngoài cấu trúc của tưởng, không có các hình dáng biến đổi, như vậy là nói về thật tướng của các sự vật. [Bản dịch của Mervyn Sprung]

XVIII.9  Không quan liên tùy thuộc tới bất kì sự vật, tịch tĩnh, không bị ý niệm phân biệt hoá bởi trình diễn ý niệm phân biệt, không đối xử sai biệt, và không tạo thành sai biệt. Đây là các tướng trạng của pháp tính [= bản miêu tả về kẻ đạt chân lí Phật giáo] (tat tattvasya laksanam) [ Bản dịch của Kenneth K. Inada]

Không tùy thuộc vào bất kì cái gì (aparapratyaya) có nghĩa rằng trong thật tướng của các sự vật thì nó không tùy thuộc vào bất kì cái gì; nó thì được thành tựu không do sự trung gian, và không bởi sự chỉ dạy của một kẻ khác. Những kẻ với khiếm khuyết về thị giác nhìn thấy [trong tâm] các sợi tóc, muỗi độc, con ong, và v.v., mà chúng vốn không hiện hữu. Ngay dù được chỉ dạy bởi các kẻ có thị giác tốt thì các kẻ thị giác khiếm khuyết vẫn không có khả năng nhận thức thật tại tính / pháp tính của các sợi tóc hư huyễn, nghĩa là chúng không có khả năng không nhìn thấy nó ngay dù các kẻ có thị giác tốt không nhìn thấy nó. Nói chính xác hơn chúng thông hiểu một cách lí thuyết, từ chỉ dạy của các kẻ có thị giác tốt, đơn giản rằng các sự vật như thế đều là các huyễn tượng do thị giác. Tuy nhiên, khi các kẻ chịu khổ vì có khiếm khuyết trở thành các cá nhân có con mắt trí tuệ, được chữa lành bệnh bởi các ngôn từ của sự nhìn thấy phi trung gian các sự vật là vô tự tính, một cách bất khả luận bác, lúc đó chúng thật chứng một cách trực tiếp và để chúng nhận rằng [khi chưa thật chứng] thật tại tính /pháp tính của các sự vật như thế hoàn toàn không được nhìn ra. Nói vậy là đủ cho câu “ Không tùy thuộc bất kì cái gì ’’. Pháp tính của các sự vật là chân lí của các sự vật.

Pháp tính của ‘tịch tĩnh’(santa; at peace) là hoàn toàn vô tự tính tương tợ như các sợi tóc hư huyễn [cũng vô tự tính] mà các kẻ có thị giác tốt không nhìn thấy.

kế tiếp biểu từ ‘không xuất hiện trong vai trò sự vật được đặt tên’. ‘Sự vật được đặt tên’ nghĩa là ngôn ngữ tạo ra các sự vật với các ý nghĩa. ‘Không xuất hiện trong vai trò sự vật được đặt tên’ nghĩa là không thể diễn tả bằng cách dùng lời nói.

‘Vượt ngoài cấu trúc của tưởng’ (nirvikalpa; vô phân biệt). Cấu trúc của tưởng là hoạt động bẩm sinh/ câu sinh của tâm. Thoát khỏi cấu trúc của tưởng là thật tướng của các sự vật thì vượt ngoài cấu trúc của tưởng.

Như kinh văn có nói: Bởi vì tâm niệm phân biệt là sự lang thang của tâm, pháp tính của sự vật là, không có tâm niệm phân biệt, là không bị tâm niệm phân biệt hoá.[1]. Kinh nói ‘Gì là chân lí tối hậu? Nơi mà không có sự lang thang của tâm, làm cách nào có thể thốt ra ngôn từ?  Đây là ý nghĩa của cái ‘vượt ngoài cấu trúc của tưởng’.

Một sự vật được nói là ‘có hình dáng biến đổi’ có các hình dáng khác nhau. Điều này nghĩa là cái gì không có hình dáng khác nhau (anarnatha) là bất biến, không có các hình dáng bội thù, sai biệt.

Như có nói trong Nhập nhị đế kinh/ Nhập niết bàn kinh (Satyaadvayavatara Sutra): ‘Văn thù sư lợi giải thích cho Thiên tử: trong chân lí tối hậu tất cả các nguyên tố / giới [sáu đại: đất, nước, gió, lửa, không, thức] đều có cùng một bản chất bởi vì chẳng được tạo ra, chẳng được sinh ra trong bất kì ý nghĩa nào, chúng có cùng một bản chất. Đó là tại sao ? Bởi vì, trong chân lí tối hậu, tất cả các nguyên tố / giới chẳng bị tạo thành sai biệt trong niết bàn do từ chẳng sinh khởi từ phương diện tự tính theo bất kì ý nghĩa nào. Này, Thiên tử, ngay cả hư không trong một cái bình đất sét cũng giống như hư không trong một cái bình trang trí bằng ngọc, cả hai trong trạng thái của hư không, trong chân lí tối hậu chẳng bị tạo thành sai biệt, này Thiên tử, một cách tương tợ, hiện hữu bị phiền não, trong chân lí tối hậu, chẳng sinh khởi trong bất kì ý nghĩa nào; sự tịnh hoá cũng chẳng sinh khởi trong bất kì ý nghĩa nào. Chu kì sinh tử tự nó là, trong chân lí tối hậu, cái chẳng sinh khởi. Ngay cả niết bàn trong chân lí tối hậu hoàn toàn đồng nhất với chẳng sinh khởi / vô sinh; trong nó trong chân lí tối hậu, chẳng có yếu tố có thể tạo thành sai biệt. Đó là tại sao ? Bởi vì trong chân lí tối hậu, tất cả các nguyên tố của hiện hữu / giới (sáu đại) là tuyệt đối bất khả dị biệt’.

Trong ý niệm này là sự bất biến thiên được hiểu như là một sự tướng trạng hoá của thật tướng của các sự vật. Nó là bởi vì vô tự tính là sự đồng nhất về bản chất trên phương diện tự tính trong tất cả các sự vật. Sự minh giải chi tiết như thế có thể có từ cùng một nguồn. Như vậy là đầy đủ về con đường mà các thánh trí, những kẻ đã đánh bại chu kì sinh, già và chết, nói về thật tướng của các sự vật.   

---------

The true way of things

*

But, you ask, what is the nature of ‘the way things really are’ which the teachings of the revered ones are intended to penetrate to? This is explained in the verse ‘When the object of thought is no more, there is nothing for language to refer to’. When this obtains what further questions can there be? Though this is so, none the less the way things are really must be spoken of. This is done by speaking in a second sense (samaropatah).  One accepts the everyday (laulika) terms ‘real’, ‘not real’ and so on which are drawn from the world of transactional discourse (vyavaharasatya).

Nagarjuna expresses it this way.

XVIII.9  Not dependent on anything other than itself, at peace, not manifested as named things, beyond thought construction, not of varying form -- thus the way things are really is spoken of (tat tattvasya laksanam).

Not dependent on anything other than itself (aparapratyaya) means that in the way things really are one is not dependent on anything, it is to be attained without mediation and not by the instruction of another.  Those with an optical defect see hairs, gnats, bees and so on which do not exist. Even though instructed by those of sound vision they are incapable of realizing the true nature of illusory hair as it is, that is, they are not capable of not seeing it even as those of sound vision do not see it. Rather they understand theoretically, from the instruction with sound vision, merely that such things are optical illusions. When, however, those suffering from the defect become people with the eye of wisdom, cured by the balm of unmediated seeing are irrefragably without substance, then they realize directly and for themselves that it is the true nature of such things not to be seen at all. So much for the phrase ‘Not dependent on anything other than itself.’ The true nature of things (svarupa) is the way things are truly (tattvam).

The true nature of ‘at peace’ is to be entirely without self-existence like the illusory hairs not seen by those of sound vision.

And then expression ‘not manifested as named things’ (prapancair aprapancita; ‘Inexpressible in verbal language’ would be an alternative translation) means inexpressible by verbal utterance). ‘Named things’ means that language gives rise to things with meanings. ‘Not manifested  as named thing’ means inexpressible in verbal utterance.

‘Beyond thought construction’ (nirvikalpa). Thought construction is the innate activity of  mind. To be free of that is the way things are beyond thought construction. As the sutra says: ‘What id the higher truth? Where nothing is happening, not even knowledge, how could there be any utterance of words? This is what ‘beyond thought construction’ means.

Something which is said to be ‘of varying form’ has different forms. This means that what is not of varying form (ananartha) is invariable, does not have multiple, differing forms.

As it is said in the Satyadvayavatara Sutra: ‘Manjusri explained to Devaputra: In higher truth, all the putative elements of existence are of the same nature because it in not being produced, in not being born in any sense at all, they are the same nature. Why is that? Because, in higher truth, all the element of existence become undifferentiated in nirvana from not really arising in any sense at all. Even as, Devaputra, the space in a clay jar is the same as the space in a bejewelled jar, both being of the nature of space, in higher truth undifferentiated, similarly, Devaputra, afflicted existence, in higher truth, does not arise in any sense; nor does purification arise in  any sense. The birth - death cycle itself is, in higher truth, one with non-arising. Even nirvana is in higher truth absolutely the same as non-arising; in it higher truth, there is no differentiable factor. Why is that?  Because, in higher truth, all element of existence are absolutely undifferentiable.’

In this sense is invariableness to be understood as a characterization of the way things really are. It is because the absence of a self-existent nature is essentially one in all things. Further such exposition can be had from the same source. So much for the way those wise ones, who have vanquished the cycle of birth, old age and death, speak of the way things really are.

----------- 

Chú thích

Nagarjuna / Long Thọ  (c.150 - 250) ; Aryadeva / Thánh Thiên  (c.170 - 270) ; Buddhapalita / Phật Hộ (c. 470 - 540); Bhavaviveka / Thanh Biện (c. 500.570) ; Candrakirti / Nguyệt Xứng (c. 570 - c.650);  Santideva / Tịch Thiên (c.700) ; Santaraksita / Tịch Hộ  (725-788) ; Atisa ( 982- 1054) ; Prajnakaramati ( c.950-1000) ; Tsongkhapa (1357-1419)

Vô Trước / Asanga  (310 - 390) Thế Thân / Vasubandhu (320 - 400) . Cưu ma la thập ( 344 - 413)  Tăng Triệu / Seng-chao  (383 - 414) ; Huyền Trang / Hsuan - tsang (600 -664)

*

XVIII.9 . Non-conditionally related to any entity, quiescent, non-conceptualized by conceptual play, non - discriminative, and non - differentiated. These are the characteristics of reality  (i.e., descriptive onf one  who has gained the Buddhist truth).

(translated by Kenneth K. Inada)

XVIII.9  Không quan liên tùy thuộc tới bất kì sự vật, tịch tĩnh, không bị ý niệm phân biệt hoá bởi trình diễn ý niệm phân biệt, không đối xử sai biệt, và không tạo thành sai biệt. Đây là các tướng trạng của pháp tính [= bản miêu tả về kẻ đạt chân lí Phật giáo] (tat tattvasya laksanam) [Bản dịch của Kenneth K. Inada]

-------

the true nature of things: dharmata : pháp tính

reality: dharmata : pháp tính ; thật tại tính; thật tại

the everyday : laulika; thế tục

the world of transactional discourses ( vyavaharasatya) : chân lí thế tục

the absence of  a self-existent  nature: vô tự tính ; tự tính không

all the element of existence”:  các nguyên tố; các giới (dhatu) : đất, nước, gió , lửa , không , thức ; sáu đại

give rise to something (formal) cause something (to happen)

Samaropa: ý niệm thiết lập theo lí thuyết = ý niệm thứ nhì = cái không hiện hữuhiện hữu

samaropa: what does not really exist to be existent;

apavada is to hold what in reality exists to be non-existent

Therefore the concepts of  samaropa and apavada are used in order to reveal that both realism and nihilism are illusory

Satyadvayavatara sutra: Nhập nhị đế kinh ; Nhập niết bàn kinh; Nhị đế liễu đạt kinh; cũng được biết đến dưới tên :Thế tục đệ nhất nghĩa sớ kinh (Samvrtiparamarthanirdesa-sutra)

chú thích [1]

Bản dịch Việt căn cứ trên bản dịch Sanskrit- English của Mervyn Sprung. Trong bài này, có một số đoạn dịch giả Mervyn Sprung không dịch, nên độc giả không thấy được toàn thể ngữ cảnh pháp thoại của ngài Nguyệt Xứng.

Bản Việt thêm vào một đoạn trong Minh cú luận “Như kinh văn có nói: Bởi vì tâm niệm phân biệt là sự lang thang của tâm, pháp tính của sự vật là, không có tâm niệm phân biệt, là không bị tâm niệm phân biệt hoá.[1]. Câu này trích từ bài: Tsong Khapa. Giải thích Trung luận. Bài tụng kính lễ mở đầu Trung luận  (Bài 2)

Minh cú luận, giải thích về “tịch tĩnh -- tự do cách tuyệt cấu trúc của tưởng” nói:

< Khi bạn tri nhận thật tướng của duyên khởi, không có sự tham dự của tâm hoặc các tiến trình tinh thần/tâm ý.>

Sự tham dự trong ngữ cảnh này, theo Nhập Trung Đạo Giải Thích của Nguyệt Xứng (Madhyamakavatara-bhasya) là sự lang thang vì nó được nói rằng sự lang thang của tâm và các các biến cố tinh thần (mental episodes) thì bị chấm dứt. Minh Cú luận nói trong lãnh vực này:

< Bởi vì tâm niệm phân biệt (conceptual thought) là sự lang thang của tâm, thật tướng của các sự vật, là tự do cách tuyệt điều đó (= lang thang của tâm), thì không bị tâm niệm phân biệt hoá (conceptualized). Kinh nói rằng,  “Chân lí tối hậu là gì? Nơi không có sự lang thang của tâm không có nhu cầu nói về các lời” (Bồ tát tạng kinh; Bodhisattvapitaka-sutra).>

< Since conceptual thought is the wandering of mind, the way things really are, being free from that , is not conceptualized. Sutra says, “What is the ultimate truth? Where there is no wandering of mind there is no need to talk about words.>

----------

Phụ Bản 1: Lược trích từ -- Trung Đạo. Chính tín căn cứ trong Suy lí . Bài 3 . Phân tích về Ngã và Vô ngã 

Chống lạihội thông hiểu sai lầm

Từ tụng 9 trở đi, Ngài Long Thọ cung cấp những cách thức để chống lại sự hiểu sai tính không, hoặc chân lí tối hậu.

Tụng 9

Không thể nhận biết từ cái khác, tịch tĩnh,

Không sinh bởi cấu trúc của tưởng,

Không bị hữu niệm hoá, không bị phân biệt,

Đó là đặc tính của pháp tính/thực tại tính.

Bài tụng này trình bày năm đặc hữu chính của chân lí tối hậu. Về căn bản, tụng khẳng định rằng như thị tính vượt ngoài tầm nhìn của ngôn ngữtâm niệm (Basically, the stanza is stating that suchness lies beyond the purview of language and thought). Không giống như các đối tượng hàng ngày—nơi chúng ta có thể phân biệt giữa một sự vật và các thuộc tính của nó – tính không chỉ là thuần phủ định về hiện hữutự tính là cách tuyệt với bất cứ một sự phân biệt nào như thế. Nó hiện hữu trong tính cách của một pháp vị đơn biệt (single taste). Điều này không có nghĩa là như thị tính của tất cả các hiện tượng hiện hữunhất như (one). Mặc dù mỗi một và mỗi mỗi hiện tượng đơn biệt đều có như thị tính, điều đó chỉ có nghĩa là tất cả các hiện tượng đều có chung bản chất chẳng có hiện hữutự tính [=vô tự tính]. Đó là ý nghĩa của bài tụng này.

(It exists in the manner of a single taste. This does not mean that the suchness of all phenomena exists as one. Although each and every individual phenomenon has suchness, that thus means all phenomena share the nature of being empty of intrinsic existence. That is the meaning of this stanza)

------------------

Phụ Bản   Bổn Vô / Chân Như
Xin nhớ đến lời Đại sư Tăng Triệu (374 - 414) (tịch lúc 31) trong Triệu luận, phần Tông Bản Nghĩa:
“Bổn vô / Chân như, Thật tướng, Pháp tánh, Tánh không, Duyên hội, năm danh từ trên vốn chỉ có một nghĩa.
Để vạch ra tông chỉ chánh phápcăn bản của bổn Luận, hai chữ Bổn Vô / Chân Như chỉ ngay tâm tịch diệt vốn không một pháp, lià tất cả tướng, dứt bặt Thánh phàm, nên gọi là Bổn Vô /Chân Như, chẳng phải có ý làm thành vô (có nghĩa là chẳng phải từ hữu lần biến thành vô, vì Bổn Vô / Chân Như này nó vượt ngoài cái có và không tương đối).
Vì tất cả pháp đều do vọng tâm tùy duyên biến hiện mà có, tâm vốn vô sanh, chỉ do nhân duyên hội hợp mà sanh nên gọi là DUYÊN HỘI.
duyên sanh ra các pháp, vốn không có thật thể, do nhân duyên sanh ra nên nói không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, vì pháp thểchơn như biến hiện nên gọi là PHÁP TÁNH.
Do chơn như pháp tánh mà thành các pháp, chơn như không có tướng, nên bản thể các pháp tịch diệt, nên gọi là THẬT TƯỚNG.
Vì bổn vô / chân như là thể của tâm, duyên hội là dụng của tâm, thật tướng , pháp tánh , tánh không, đều là cái nghĩa do tâm tạo thành vạn pháp nên nói là một nghĩa vậy …
Tại sao vậy? Tất cả các pháp đều do nhân duyên hội hợp mà sanh, duyên hội mà sanh thì khi chưa sanh không có, duyên lìa thì diệt, nếu mà thật có, có thì chẳng diệt. Theo đó mà suy ra thì biết, dù nay hiện ra có, cái có ấy tánh thường tự không, vì tánh thường tự không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, bởi vì tánh không nên gọi PHÁP TÁNH, pháp tánh chân thực như thế nên gọi là THẬT TƯỚNG, thật tướng vốn không có tự thể, chẳng phải do suy lường mà cho đó là không, nên gọi là Bổn  Vô / Chân như.”

(Trích từ Triệu Luận Lược giải. Thích Duy Lực dịch, trong CHƯ KINH TẬP YẾU, trang 470 - 471) ..

*Bổn vô : thời ngài La thập dịch là bổn vô ; về sau dịch là Chân như

-----------

Giới hạn của ngôn ngữ  ( Nguyệt Xứng. Minh cú luận.p.179)

Và từ Chính định vương kinh / Nguyệt đăng tam muội kinh (Samadhirajasutra):

“Khi Đức Phật, thánh giả, quốc vương của chân lí, vị khai hiển của tất cả các chân lí xuất hiện, điệp khúc thì được vang lên từ cây cỏ, cây con và cây lớn và cây nhỏ, từ sỏi đá và các núi non: tất cả các tập hợp của đời sống đều là tính không / tính chân không diệu hữu”

“Bất kì xa xôi cách nào chỉ thuần các đơn vị chữ viết, lời nói vươn tới cõi thế tục, tất cả đều là tính không/ tính chân không diệu hữu, chẳng có cái chi là thật [ thật = chẳng biến dịch]; và  vang xa là tiếng gọi của đức Phật, vị hướng dẫn và vị thầy của tất cả loài người”.

*  

And from the Samadhirajasutra:

‘When Buddha, the sage, the king of truth, the revealer of all truths appears, the refrain is sounded from grass and bush and tree and plants, from the rocks and the mountains: all element of existence are without being’.

“Howsoever far mere words reach in the world realm, all are without being, none is real; and so far resounds the call of the realized one, the guide and teacher of all men.’

------

Niết bàn

Khi chư Phật nhập niết bàn, đại lạc tối hậu, đó là sự an tĩnh của các cấu trúc của tưởng, chư Phật tương tợ như các thiên nga huy hoàng trong bầu trời, tự thong dong trong hư không hoặc trong chân không diệu hữu của hư không trên đôi cánh của tích tập phúc đứctrí tuệ; kết quả nên biết đó là bởi vì chư Phật không tri nhận các đối tượng là các tướng trạng, không có ‘Chân Lý’ gắt gao bất kỳ là cái gì quan liên đến sự nô lệ hoặc sự tịnh hoá đã được giảng dạy giữa hoặc cho cõi trời hoặc cõi người dù là bất kỳ cái gì. 
*
When the illustrious Buddhas are in nirvana, the ultimate beatitude, which is the coming to rest of named things as such, they are like kingly swans in the sky, self-soaring in space or in the nothingness of space on the twin wings of accumulated merit and insight; then it should be known , that, because they do not perceive objects as signs, no rigid ‘Truth’ whatsoever either concerning bondage or purification has been taught either among or for any gods or men whatsoever.

*Candrakirti. Lucid Exposition of the Middle Way. Prasannapada of Candrakirti . Translated by Mervyn Sprung -- p. 262. (Nguyệt Xứng. Minh Cú luận
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9083)
Thần thông của Đức Phật là một trong những đề tài thu hút người viết và lôi cuốn người đọc. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này.
(Xem: 7987)
Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ), người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục, người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời, và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
(Xem: 16163)
Khoa học thần kinh ngày hôm nay đã chứng minh một cách khách quan và cụ thể rằng chánh niệm (samma-sati) là con đường trực tiếp nhất để gạt bỏ vọng tưởng về cái "ta"
(Xem: 15702)
Trong các ngành khoa học, rất có thể khoa học thần kinh (neurosciences) sẽ là ngành phát triển mạnh và gây nhiều ảnh hưởng nhất trong những thập niên tới.
(Xem: 7934)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 7943)
Từ trước đến nay không có một tôn giáo, triết họctâm lý học nào phân tích tâm đầy đủ rõ ràng như Phật Giáo.
(Xem: 8663)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc.
(Xem: 7825)
Kinh Hoa sen pháp diệu là dịch nghĩa từ tiếng Phạn Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, và được dịch ra tiếng Trung Hoa bởi nhiều dịch giả.
(Xem: 7426)
Chẳng đồng nhất, chẳng dị biệt, chẳng đoạn diệt, chẳng thường hằng: đây là các giáo pháp bất tử của chư Phật, chư thượng thủ của thế giới.
(Xem: 9272)
Theo Phật Giáo, tâm tư duy (Tâm phan, như vệ tinh quả đất, định tinh mặt trời, và vô lượng thiên hà) có thể sinh ra trong không gian thời gian...
(Xem: 8532)
Trong cuốn giáo thuyết về linh hồn của Phật Giáo, Soul theory of the Buddhist, Giáo Sư Stcherbatsky, ghi nhận rằng...
(Xem: 8564)
Bất kì một sự vật gì tùy thuộc vào một nguyên nhân thì duyên hội thành một hiệu quả.
(Xem: 11840)
Đức Phật đã giải thích nguồn gốc của thế giới, vũ trụ, vạn vật, là do nghiệp quả (cause & effect) hấp dẫn cùng với sức thu hút bởi 12 nhân duyên
(Xem: 7460)
Ngũ uẩn hay là Ngũ ấm chỉ là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm...
(Xem: 8240)
Tạng Quang Minhcon đường đi của ánh sáng, cùng với năng lượng (chân hỏa tam muội, energy) và sắc tướng (mass) là phương tiện thần thông để du hành trong vũ trụ.
(Xem: 11648)
Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi?
(Xem: 7376)
Phật Pháp được chia ra làm bốn thể loại là Giáo, Lý, Hành và Quả.
(Xem: 8935)
Tâm người bị ba thứ độc tố trói buộc, chính vì vậy chúng ta không sao vượt thoát được cảnh trầm luân khốn khổ. Chúng ta bị mắc kẹt trong phiền não của ba độc
(Xem: 9992)
Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong...
(Xem: 9634)
"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" là một câu kinh rất ngắn trong cả quyển kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật rất nổi tiếng được giới học Phật trích dẫn nhiều nhứt.
(Xem: 9563)
Mọi tồn tại đều vốn có Tự tính (như là bản chất) của nó. Vì rằng cái thành lập ra nó là Nhân tạo tác (Nhân) và Điều kiện tạo tác (Duyên) cũng tồn tại,
(Xem: 10514)
Giai đoạn đầu của Phật giáo Đại thừa được thể chứng qua sự hình thành và phát triển một văn hệ đồ sộ là Bát-nhã ba-la-mật-đa (prajñāpāramitā).
(Xem: 10088)
Căn bản trung quán luận tụng (Mūlamadhyamaka-kārikā) là một bộ luận chính trong ngôi nhà đồ sộ tráng lệ Trung Quán.
(Xem: 8177)
Cộng đồng nhân loại đã đến một điểm nghiêm trọng trong lịch sử của nó. Thế giới ngày nay khiến chúng ta phải chấp nhận nhân loại là một.
(Xem: 20168)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 8049)
Trong thế giới này cá nhân không hiện hữu, ngã cũng không hiện hữu, bởi vì chúng là các sự vật duyên khởi.
(Xem: 8526)
Đối tượng chấp thủ của tâm chấm dứt (tâm hành xứ diệt), Con đường ngôn ngữ không có lối vào (ngôn ngữ đạo đoạn).
(Xem: 9394)
Đấng Toàn Giác biết đã đến lúc sắp kết thúc kiếp sống này của Ngài. Nhưng trước khi nhập diệt, Đức Phật muốn
(Xem: 9250)
Ngã được nói đến, Để phân biệt với vô ngã. Chư Phật dạy thật tướng các pháp, Không có ngã, không có vô ngã.
(Xem: 7697)
Để giúp độc giả, tôi sẽ trình bày một bản tổng hợp giáo lý của các thuyết phục chính yếu về tôn giáotriết học của ngài Long Thọ.
(Xem: 8323)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn?
(Xem: 8165)
Do vô minh che lấp, chúng sinh tạo ba hành, nên theo ba hành nghiệp (thân, ngữ, tâm) vào luân hồi sáu cõi.
(Xem: 8984)
Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”.
(Xem: 8728)
Chúng ta phải hỏi điểm xuất phát là gì, chủ đề là gì, và quan tâm tối hậu của bộ luận tuyệt vời này là gì.
(Xem: 8567)
Chúng ta đang tiến dần đến đỉnh cao vĩ đại của Giáo Pháp, và mặc dù có những nguy hiểm đáng sợ đang đe doạ thế giới chúng ta.
(Xem: 10141)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hoá dân gian như...
(Xem: 8092)
Năm giớimười điều thiện được xem là cơ sở thiết lập đạo đức Phật giáo thì giới thứ hai “Không trộm cắp” là nhằm đảm bảo tính công bình và hướng tâm con người đi đến sự vô tham, vô sân, vô si.
(Xem: 8798)
Một khi tâm giác ngộ đã phát sinh, hạt giống của giáo pháp sẽ tiếp tục lớn mạnh cho dù...
(Xem: 8976)
Năm pháp, cùng tự tính, Tám thức, hai vô ngã. Hết thảy nó đều thâu nhiếp Đại thừa.
(Xem: 8423)
Nếu chúng ta có một sự sân hận lớn dễ bùng nổ và chưa rèn luyện chính mình một cách thích đáng, thế nên khi chúng ta cố gắng để...
(Xem: 7591)
Nguyên lý ở đây, là nguyên lý vô ngã, của Pháp duyên khởi, nguyên lý này ở chỗ khác, Pháp Hoa còn gọi là “vốn thường hằng tịch diệt”:
(Xem: 7493)
Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiênniết bàn / bản tính niết bàn (prakrtiparinirvana; natural nirvana), vượt ngoài sầu muộn...
(Xem: 9471)
Phật giáo không bao giờ có khái niệm cõi âm hay là âm phủ. Có thể đây là những từ ngữ của tín ngưỡng dân gian
(Xem: 9830)
Tự lựctha lực là những khái niệm được đề cập rất nhiều trong Phật giáo. Những khái niệm này bao trùm...
(Xem: 8502)
Ba truyền thống Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng đều cho rằng Phật tánh hay Như Lai tạng là lần thuyết pháp sau cùng và cũng là cực điểm của kinh điển.
(Xem: 12237)
Tại sao gọi Tánh không duyên khởi? Nhà Phật nói tất cả pháp Tánh không, do duyên hợp thành các pháp.
(Xem: 9597)
Trước khi trở lại Tâm Kinh, hãy thử tìm hiểu thuyết vô ngã qua kiến giải của nhiều bộ phái khác nhau trong Phật giáo để...
(Xem: 7523)
Giáo huấn được mở rộng vô hạn và được tuyên thuyết đến vô lượng chúng sanh khắp các loài đủ các tính khí.
(Xem: 8804)
Sự “chuyển phước” như chỉ là một phép ẩn dụ phần nào đẹp để chỉ những gì xảy ra đối với những ảnh hưởng của hành động có kết quả tốt (puṇya), điều được gọi là “thiện nghiệp”
(Xem: 16820)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 8969)
Theo quan điểm của Phật Giáo thì mục đích của lễ bái là nhằm giúp chúng ta đến gần hơn với Đức Phật.
(Xem: 13209)
Phật giáophương cách dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân hận oán hờn, đó là phương thuốc diệt khổ cho vui,
(Xem: 19721)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 8594)
Dưới đây là một bài viết của học giả Phật giáo Philippe Cornu, và cũng là bài mở đầu trong tập san "Hướng nhìn Phật giáo" (Regard Bouddhiste)...
(Xem: 9181)
Đối với Phật giáo, dana - việc bố thí - giữ một vai trò thật quan trọng, bởi vì nếu ngay từ lúc mới khởi sự tu tập mà không thực thi việc bố thí thì sẽ ...
(Xem: 8271)
“Tất cả ba cõi chỉ là Một Tâm”. Phẩm Dạ-ma cung kệ tán nói, “Như tâm, Phật cũng vậy. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật, và chúng sanh. Cả ba không sai khác”.
(Xem: 10149)
“Theravāda Tantra”, hay “esoteric practices of Theravāda ” là những thuật ngữ mà các học giả phương tây sử dụng để gọi các pháp hành mang tính bí truyền của...
(Xem: 9792)
Nghiệp quả: Quả chín (trên năm uẩn), * Quả tương đương với nhân,# Nghiệp quả qua hoàn cảnh
(Xem: 14988)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 7843)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant