Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Các Hữu TìnhBản Tính Tự NhiênNiết Bàn

15 Tháng Mười Hai 201510:43(Xem: 7508)
Các Hữu Tình Có Bản Tính Tự Nhiên Là Niết Bàn

CÁC HỮU TÌNHBẢN TÍNH TỰ NHIÊNNIẾT BÀN

Đặng Hữu Phúc


Các Hữu Tình Có Bản Tính Tự Nhiên Là Niết Bàn

Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiênniết bàn / bản tính niết bàn (prakrtiparinirvana; natural nirvana), vượt ngoài sầu muộn, vượt ngoài tầm với của đau khổ, nên đều được giải thoát. Điều này được Ngài Tịch Thiên (685-763) giải thích trong Con đường Bồ Tát.  

IX. 102.  Tâm thì không có vị trí trong các căn/năng lực cảm giác (sense faculties), cũng không trong sắc tướng (form) và các đối tượng cảm giác khác (other sense-objects), cũng không ở khoảng giữa chúng. Tâm cũng không được tìm thấy bên trong, bên ngoài, cũng không bất kì đâu khác.

IX. 103. Tâm thì không ở trong thân, cũng không bất kì nơi khác, cũng không trộn lẫn, cũng không đứng riêng một nơi nào, là bản vô, nghĩa là không hiện hữu tự tính [= không một vật / bản vô /chân như / như như]. Thế nên, các hữu tình do bản chất đều được giải thoát [= đều là niết bàn tịch tĩnh].

[IX.103 That which is not in the body nor anywhere else, neither intermingled nor somewhere separate, is nothing. Therefore, sentient beings are by nature liberated.|| Translated from Sanskrit by Vesna A. Wallace and B. Alan Wallace).

[IX.103 What is not in the body nor elsewhere, neither intermingled nor separate anywhere, that is nothing. Therefore living beings are inherently liberated.|| Translated from Sanskrit by Kate Crosby and Andrew Skilton]   

*

Prajnakaramati (950-1030) viết Panjika (Giải thích Con đường Bồ tát của Tịch Thiên):

Tâm thì không ở trong thân cũng không ở nơi nào khác ngoài thân, tâm cũng không trộn lẫn giữa hai cái này, thân và sự vật bên ngoài, cũng không li cách với thân và hiện diện ở một nơi khác, về phương diện tối hậu là bản vô/chân như, đó là, nó không hiện hữu một cách tự tính. Nó chỉ được tượng trưng bởi cấu trúc của tưởng. Tâm luân hồi cho ấn tượng tương tự một huyễn tượng bởi vì nó chẳng có một bản chất tự tính. Bởi vì lí do đó, các hữu tình được giải thoát do bởi bản chất, bởi vì bản tính niết bàn (prakrti-nirvana; natural nirvana), nó có tướng trạng của không có bản chất tự tính, thì luôn luôn hiện diện trong các dòng tâm thức của tất cả các hữu tình. [Panjika, pp. 245-246]

[According the Panjika, pp.245-246, the mind that is not in the body nor somewhere else outside the body, that is neither intermingled between the two, the body and the outside thing, nor separate from the body and present somewhere else, is ultimately nothing, that is it does not truly exist. It is only presented by mental fabrication. The samsaric mind appears like an illusion because it lacks an intrinsic nature. For that reason, sentient beings are liberated by nature, because the natural nirvana (prakrti-nirvana), which has the characteristic of the absence of intrinsic nature, is always present in the streams of consciousness of all beings.|| A Guide to Boddhisattva Way of Life. Translated from Sanskrit and Tibetan by Vesna A. Wallace and B. Alan Wallace]

*

Đức Đạt Lai Lạt Ma trong Pháp thoại Trí Tuệ Siêu Việt (Transcendental Wisdom 1979) giảng chương 9 của Con đường Bồ tát của Tịch Thiên, giảng kệ tụng 103 :

“Tâm không hiện hữu một cách tự tính trong bản chất của thân, cũng không trong nơi nào khác, cũng không là một trộn lẫn với thân, cũng không cách biệt với thân (nor on its own apart from the body). Nếu đối tượng được đặt tên, tâm, được tìm kiếm, bạn khám phá rằng nó không hiện hữu một cách độc lập. Như vậy, hữu tình do bản chất được giải thoát”.

Đức Đạt Lai Lạt Ma trong Pháp thoại 1993  giảng về Con đường Bồ tát của Tịch Thiên  (Tu Tập Trí Tuệ Siêu Việt /Practicing Wisdom. Đặng Hữu Phúc dịch), giảng kệ tụng 103:

“Tâm không thể hiện hữu trong thân, là thân (trong vai trò là thân), hoặc ở khoảng giữa hai điều trên; tâm cũng không thể hiện hữu độc lập với thân. Một tâm như thế không thể tìm thấy được; thế nên tâm khônghiện hữu tự tính. Và khi các hữu tình công nhận bản chất này của tâm, giải thoát có thể duyên hội xảy ra.

Mặc dù chúng ta biết rằng tâm thức hiện hữu [nhưng không có hiện hữu tự tính], nếu chúng ta phân tích và cố gắng định vị trí nó trong các sát na trước hoặc tiếp theo của tương tục của nó, ý niệm về tâm thức là một đơn vị hiện thể (entity) bắt đầu biến mất, giống như với sự phân tích về thân. Xuyên qua sự phân tích như thế, chúng ta đi tới sự không có hiện hữu tự tính của tâm thức. Điều này cũng áp dụng như nhau đối với các trải nghiệm giác quan, tỉ dụ các tri nhận do mắt, vì chúng cũng chia sẻ bản chất chung”.

*

Patrul Rinpoche (1808-1887) giảng kệ tụng 103 như sau:

Bất kỳ cái gì là thân thì không là tâm. Nhưng trong khi tâm không được tìm thấy cách biệt với thân, như thể nó ở trong các đối tượng bên ngoài, cũng không phải nó trộn lẫn và hợp làm một với thân. Nhưng bởi vì nó không thể có một hiện hữu độc lập, cũng không cách biệt với thân, dù chỉ là tí chút, thế nên bản văn Tịch Thiên. Con đường Bồ tát nói: “Các hữu tình do bản chất của chúng thì vượt ngoài tầm với của đau khổ” (Beings by their nature are beyond the reach of suffering”.  Kinh Bảo Tích (Ratnakuta) nói: Tâm không ở bên trong; tâm không ở bên ngoài; cũng không ở cả hai bên trong bên ngoài. Bạn không thể chỉ thẳng vào nó (The mind is not within; the mind is not without; neither is it both. You cannot point to it). Và sau đó lời kinh nói tiếp: “Này Ca Diếp, ngay cả tất cả chư Phật chưa bao giờ thấy nó! Chư Phật không thấy nó và chư Phật sẽ không bao giờ sẽ thấy nó” (O Kashyapa -- even all the Buddhas have never seen it! They do not see it and they never shall ! ). Và kinh Bát nhã ba la mật tám ngàn tụng nói “Tâm thực ra không là một “tâm”; bản chất của tâm là quang minh giác chiếu” (The mind indeed is not a mind”; the nature of the mind is lucent clarity) .

(The Nectar of Manjushri’s Speech. A detailed Commentary on Shantideva’s Way of the Bodhisattva . Kunzang Pelden. Shambhala 2007. Cam lộ của Diệu Ngữ của Văn Thù Sư Lợi. Giải thích Con đường Bồ tát của Tịch Thiên. Patrul Rinpoche giảng. Kunzang Pelden ghi)     

*  

Ngài Tịch Thiên giải thích bản chất của các hữu tình là Như tính / Tính không, nghĩa là không có hiện hữu tự tính, có bản tính tự nhiênNiết bàn, thế nên hết thảy các hữu tình đều được giải thoát.

Về Như tính (Suchness), Jeffrey Hopkins giải thích:

‘Như tính’ quy chỉ vào ‘tính không’ bởi vì bất kể chư Phật xuất hiện hay không thì bản chất của các hiện tượng vẫn là như thế. Một như tính thì cũng là ‘bản tính niết bàn’ (natural nirvana; prakrtiparinirvana) mà không quy chỉ tới một thông lộ hiện hoạt vượt trên sầu muộn (actual passage beyond sorrow), đó là, một sự vượt qua các phiền não, nhưng nó quy chỉ vào một tính không, tính không này một cách bản nhiên vượt ngoài sự hiện hữu tự tính. Giáo pháp nói rằng các hiện tượng sinh tử luân hồi đều là các đơn vị hiện thể (entities) đồng nhất với các bản tính niết bàn, hoặc các tính không, và không phải là các hiện thể khác biệt. Điều này không có nghĩa là không có sự khác biệt giữa bị phiền não do ý niệm hiện hữutự tính và không bị phiền não do ý niệm hiện hữu tự tính.

(Jeffrey Hopkins. Meditation on Emptiness. Wisdom 1996. p. 218-219)

Suchness

Suchness refers to “emptiness” because whether Buddhas appear or not the nature of of phenomena remain as such. A suchnessis also a ‘natural nirvana’ (prakrtiparinirvana) which does not  refer to an actual passage beyond sorrow, that is, an overcoming of the afflictions, but to an emptiness itself that naturally passed beyond inherent existence. The teaching that cyclic existence  and nirvana  are not different means that the phenomena of cyclic existence are the same entities as their natural nirvanas, or emptinesses, and not separate entities. It does not mean there is no difference  between being afflicted with the conception of inherent existence and not being so afflicted.

( Jeffrey Hopkins. Meditation on Emptiness. Wisdom 1996. p. 218-219)

*

Như tính, Bản tính Niết bàn  của các hữu tình do ngài Tịch Thiên (c. 685-763) giải thích, hoà hợp với các kinh điển Phật Giáo, tỉ dụ Duy ma cật sở thuyết do ngài Cưu ma la thập dịch (khoảng năm 400), và Phật thuyết Vô Cấu Xưng do ngài Huyền Trang (596-664) dịch năm 645.

*Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết (Hán dịch: Cưu ma la thập. Việt dịch: Tuệ Sỹ)

Như Phật đã nói: Này tỳ kheo, ngươi nay tức thời vừa sinh, vừa già, vừa diệt. Nếu bằng vô sinh mà được thọ ký, thì vô sinhchính vị. Mà trong chính vị thì không có thọ ký, thì cũng không có sự chứng đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vậy làm sao Di lặc được thọ ký còn một lần tái sinh ? Ấy là bằng Như sinh [11] mà được thọ ký, hay bằng Như diệt mà được thọ ký? Nếu bằng Như sinh mà được thọ ký, thì Như vốn không sinh. Nếu bằng Như diệt mà được thọ ký thì Như vốn không diệt. Vì hết thảy chúng sinh đều là Như tính vậy. Hết thảy các pháp cũng là Như tính vậy. Các Hiền thánh cũng là Như tính vậy. Di lặc cũng là Như tính vậy. Như vậy nếu Di-lặc được thọ ký, thì hết thảy chúng sinh cũng đều được thọ ký. Vì sao? Vì Như vốn không hai, không khác [13].

Nếu Di-lặc chứng đắc giác ngộ tối thượng, thì hết thảy chúng sinh cũng chứng đắc giác ngộ tối thượng. Vì sao? Vì hết thảy chúng sinh là tướng của Bồ đề [14].

Nếu Di-lặc mà diệt độ, thì hết thảy chúng sinh cũng diệt độ[15]. Vì sao ? Chư Phật biết rõ hết thảy chúng sinh rốt ráo tịch diệt, tức là tướng bồ đề, không còn gì để diệt nữa [16].

[11] VKN Sanskrit, tathatotpadena…tathatanirodhena, được thọ ký bằng sự sinh khởi của Như tính, bằng sự tịch diệt của Như tính.

[13] VKN, na hi tathata dvayaprabhavita nanatvaprabhavita, thật vậy, Chân như không hiển hiện bởi nhị nguyên tính, không hiển hiện bởi đa thù tính.

[14] Bồ-đề tướng. Bản Huyền Trang: “Bồ-đề (bodhi) là điều được giác tri (anubuddha) một cách đồng đẳng bởi tất cả hữu tình”. [VKN, bản Sanskrit: sarvasattvanubodhohi bodhih, bồ đề là sự chứng giác của tất cả chúng sinh.

[15] Bản Huyền Trang: Bát-niết-bàn.

[16] Bản Huyền Trang: “Tính tịch tĩnh tự bản chất của hết thảy hữu tình tức là yếu tính của Niết-bàn, vì vậy Phật nói Chân như là Bát-niết-bàn. VKN: tathagatah…te sattvani pasyanti nirvanaprakrtikani, các Như Lai thấy mọi chúng sinh đều có bản tính tự nhiên là Niết-bàn.

*

PHẬT THUYẾT VÔ CẤU XƯNG KINH
Hán Dịch: Đại Đường, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang - (dịch năm 645)
Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Nguyên

 

“ Như đức Thế Tôn đã nói: “Này Tỳ kheo các ông! Sanh già chết trong mỗi sát na. Chết đó rồi sanh đó. Nếu vì vô sanh mà được thọ ký thì vô sanh tức là đã nhập vào chánh tánh. Khi vô sanh này đã nhập trong chánh tánh thì không có vấn đề thọ ký, cũng không chứng đắc Chánh Đẳng Bồ đề.

Vậy làm sao Từ Thị được thọ ký? Theo Như sanh được thọ ký hay theo Như diệt mà được thọ ký? Nếu theo Như sanh được thọ ký thì Như không có sanh. Nếu theo Như diệt được thọ ký thì Như không có diệt. Không sanh không diệt theo trong Lý Chơn Như thì không có vấn đề thọ ký.

Tất cả hữu tình đều Như, tất cả các pháp cũng đều Như, tất cả Hiền Thánh cũng đều là Như, cho đến Từ Thị cũng là Như. Nếu tôn giả Từ Thị được thọ ký thì tất cả hữu tình cũng sẽ được thọ ký như vậy. Vì sao? Vì Chơn Như chẳng phải sự hiển bày của hai, cũng chẳng phải sự hiển bày các tánh khác.

Nếu tôn giả Từ Thị chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì tất cả hữu tình cũng sẽ được chứng như vậy. Vì sao? Vì đối với Bồ đề thì tất cả hữu tình đều giác ngộ như nhau. Nếu tôn giả Từ Thị Bát Niết bàn thì tất cả hữu tình cũng sẽ Bát Niết bàn. Vì sao? Vì chẳng phải hữu tình thì không Bát Niết bàn. Đức Phật nói Chơn NhưBát Niết bàn, vì Ngài quán sát thấy bản tánh của các hữu tình đều tịch tịnh, đó là tướng Niết bàn. Thế nên nói Chơn NhưBát Niết bàn.

*

The Holy Teaching of Vimalakirti. Translated from Tibetan by Robert Thurman.  

Như Phật đã nói, ‘Các Tỳ kheo, trong một sát na, các ông sinh, các ông già, các ông chết, các ông chuyển cư, và các ông tái sinh’.  ‘Vậy thì sự thọ ký có thể do sự không sinh? Nhưng khi sự không sinh nhập vào tính tối hậu, trong tính tối hậu đó chẳng có sự thọ ký cũng chẳng có thành tựu chánh đẳng chánh giác’. ‘Thế nên, Di-lặc, như tính /pháp tính của ông do sinh? hoặc nó do diệt?  Như tính của ông như được thọ ký thì không sinh và không diệt, cũng chẳng sẽ sinh  cũng chẳng sẽ diệt. Hơn nữa, như tính của ông hoàn toàn giống như như tính của tất cả chúng sinh, như tính của tất cả các sự-sự vật-vật, và như tính của tất cả các hiền thánh.  Nếu sự giác ngộ của ông có thể được thọ ký theo cách thức như thế, thì sự thọ ký của tất cả các chúng sinh cũng có thể theo cách thức như thế. Tại sao? Bởi vì như tính không có tính nhị nguyên hoặc tính khác biệt.  Di-lặc, bất kỳ khi nào ông thành tựu Phật quả, đó là chánh đẳng chánh giác, thì đồng thời tất cả chúng sinh sẽ cũng  thành tựu giải thoát tối hậu. Tại sao?  Các Như Lai không nhập giải thoát tối hậu cho tới khi mà tất cả chúng sinh đều đã nhập giải thoát tối hậu.  Do, bởi vì tất cả chúng sinh được hoàn toàn giải thoát, các Như Lai thấy chúng sinhbản chất của giải thoát tối hậu”.

*

For the Buddha has declared, "Bhikshus, in a single moment, you are born, you age, you die, you transmigrate, and you are reborn." "Then might the prophecy concern birthlessness?  But birthlessness applies to the stage of destiny for the ultimate, in which there is neither prophecy nor attainment of perfect enlightenment". 'Therefore, Maitreya, is your reality from birth?  Or is it from cessation?  Your reality as prophesied is not born and does not cease, nor will it be born nor will it cease. Furthermore, your reality is just the same as the reality of all living beings, the reality of all things, and the reality of all the holy ones. If your enlightenment can be prophesied in such a way, so can that of all living beings. Why? Because reality does not consist of duality or of diversity. Maitreya, whenever you attain Buddhahood, which is the perfection of enlightenment, at the same time all living beings will also attain ultimate liberation. Why? The Tathagatas do not enter ultimate liberation until all living beings have entered ultimate liberation. For, since all living beings are utterly liberated, the Tathagatas see them as having the nature of ultimate liberation. "

*

Đại sư Tăng Triệu (374 - 414) (có sách ghi tịch lúc 31) trong Triệu luận, phần Tông Bản Nghĩa:

“Bổn vô, Thật tướng, Pháp tánh, Tánh không, Duyên hội, năm danh từ trên vốn chỉ có một nghĩa. Để vạch ra tông chỉ chánh phápcăn bản của bổn Luận, hai chữ Bổn Vô chỉ ngay tâm tịch diệt vốn không một pháp, lìa tất cả tướng, dứt bặt Thánh phàm, nên gọi là Bổn Vô, chẳng phải có ý làm thành vô [có nghĩa là chẳng phải từ hữu lần biến thành vô, vì Bổn Vô này nó vượt ngoài cái có và không tương đối. Thích Duy Lực]. Vì tất cả pháp đều do vọng tâm tùy duyên biến hiện mà có, tâm vốn vô sanh, chỉ do nhân duyên hội hợp mà sanh nên gọi là DUYÊN HỘI.
duyên sanh ra các pháp, vốn không có thật thể, do nhân duyên sanh ra nên nói không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, vì pháp thểchơn như biến hiện nên gọi là PHÁP TÁNH. Do chơn như pháp tánh mà thành các pháp, chơn như không có tướng, nên bản thể các pháp tịch diệt, nên gọi là THẬT TƯỚNG.
Vì bổn vô là thể của tâm, duyên hội là dụng của tâm, thật tướng, pháp tánh, tánh không, đều là cái nghĩa do tâm tạo thành vạn pháp nên nói là một nghĩa vậy …
Tại sao vậy? Tất cả các pháp đều do nhân duyên hội hợp mà sanh, duyên hội mà sanh thì khi chưa sanh không có, duyên lìa thì diệt, nếu mà thật có, có thì chẳng diệt. Theo đó mà suy ra thì biết, dù nay hiện ra có, cái có ấy tánh thường tự không, vì tánh thường tự không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, bởi vì tánh không nên gọi PHÁP TÁNH, pháp tánh chân thực như thế nên gọi là THẬT TƯỚNG, thật tướng vốn không có tự thể, chẳng phải do suy lường mà cho đó là không, nên gọi là Bổn Vô.”

(Chú thích: Bản Vô, từ ngữ dịch thời ngài Cưu Ma La Thập, về sau được dịch là Chân Như)

(Trích từ Triệu Luận Lược giải. Thích Duy Lực dịch, trong CHƯ KINH TẬP YẾU, trang 470 - 471)

*

Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiên là niết bàn/ bản tính niết bàn, vượt ngoài sầu muộn, vượt ngoài tầm với của đau khổ, nên đều được giải thoát. Niềm vui này đã được giới thiệu qua Kinh Duy Ma Cật / Kinh Vô Cấu Xưng, và qua Con đường Bồ tát của Tịch Thiên.

Em chợt thấy yêu đời vô cùng tận
Vì đời là rất mực thiêng liêng
Em chợt thấy không buồn đau oán giận
Thiêng liêng không chia biệt cõi miền
(Bùi Giáng)  

Với bản tính tự nhiênniết bàn, chúng ta nên tỉnh biết, và nhớ lời ngài Vô Trước giảng trong Luận Du Già Sư Địa: Si, Ngu si, Vô minh, Vô trí, Vô kiến, Vô hiện quán, Hôn muội, Hắc ám … là đồng nghĩa.

Hãy sống với tính Bản Phật Phổ hiền của mình (The nature of the Primordial Buddha Samantabhadra; Phổ Hiền: All-around Goodness)

TỜ CŨ

Bây giờ tờ cũ đổi tên
Ấy là tờ mới mênh mông lạ lùng
Vô bờ vô bến vô chung
Kể từ vô thủy thung dung đi về
(Bùi Giáng)

Đặng Hữu Phúc

Sydney,  13.12.2015

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32221)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30433)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30698)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21037)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20217)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19449)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24402)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30705)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15704)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27820)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19783)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15584)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23277)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23596)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17548)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15710)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21924)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38051)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22214)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23276)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21376)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28438)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32591)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25217)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34714)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22978)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27748)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31335)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13620)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25228)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27862)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22129)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20763)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22231)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27174)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24173)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21945)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14728)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23196)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24045)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21160)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14221)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19956)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22531)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14091)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28074)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22861)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28231)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 11009)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28531)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31604)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26222)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14992)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28055)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7456)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25394)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20719)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21147)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12273)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11931)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant