Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chân Lí Trong Thế Giới Của Nguyên NhânHiệu Quả

16 Tháng Hai 201612:58(Xem: 8634)
Chân Lí Trong Thế Giới Của Nguyên Nhân Và Hiệu Quả

Nguyệt Xứng
CHÂN LÍ TRONG THẾ GIỚI CỦA NGUYÊN NHÂNHIỆU QUẢ 

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

Bản dịch Anh: Candrakirti. Lucid Exposition of the Middle Way. The Essential Chapters from
the Prasannapada of Candrakirti. Translated from the Sanskrit by Mervyn Sprung
in collaboration with T.R.V. Murti and U.S. Vyas. Routledge, 1979. ( pp184 - 185)

Chân Lí Trong Thế Giới Của Nguyên Nhân Và Hiệu Quả

Quy chiếu về sự tướng trạng hoá của thật tướng của các sự vật trong thế giới hàng ngày ngài Long Thọ nói:

XVIII.10  Cái gì bắt đầu hiện hữu do tùy thuộc vào một sự vật khác thì nó không thể là chính sự vật đó; cũng không thể là một sự vật hoàn toàn khác với sự vật đó; thế nên các sự vật không thể đoạn diệt một cách hoàn toàn, chúng cũng không thể thường hằng.

Bất kì một sự vật gì tùy thuộc vào một nguyên nhân thì duyên hội thành một hiệu quả. Một mầm lúa, tỉ dụ, bắt đầu hiện hữu trong sự tùy thuộc vào một hạt giống và một phức hợp các duyên tỉ dụ đất, v.v... Nhưng không thể nói mầm thì rõ ràng chính xác đồng nhất với hạt giống, cũng không thể nói hạt giống thì rõ ràng chính xác đồng nhất với mầm vì tạo hệ quả vô lí rằng cái được sinh ra (sở sinh) và cái tạo ra sinh (năng sinh) sẽ là một và đồng nhất: rằng người bố và người con sẽ là đồng nhất. Nếu không có sự khác biệt thì một kẻ sẽ xem hạt giống hiện hữu trong giai đoạn mầm, chính là mầm, và một kẻ sẽ xem mầm là hạt giống. Hạt giống như vậy sẽ là thường hằng bởi vì không thể đoạn diệt. Bởi vì điều này sẽ đưa đến một học thuyết về thường hằng nó sẽ tạo kết quả quy mô với các lỗi lầm trầm trọng; nó sẽ đưa đến kết luận có tính luận lí rằng tác hành và các hệ quả của nó là không thật. Do thế, nói rằng hạt giống thì đồng nhất với mầm là không hợp lí. Cũng không hợp lí khi nói hạt giống này thì hoàn toàn khác với mầm; mầm không thể hoàn toàn là một cái khác và hệ quả (or) tiếp theo là mầm có thể nảy mầm cho dù không có hạt giống. Như ngài Long Thọ nói: ‘Nếu cái là ‘cái khác’ là hoàn toàn khác biệt với ‘cái khác’ nó sẽ là một cái khác nếu nó không có bất kì một sự khác biệt’. Nó sẽ đưa đến kết quả nếu một hạt giống tiếp tục tồn tại trong mầm rằng hạt giống sẽ không thể hoại diệt. Nó sẽ đưa đến lỗi lầm luận lí do chủ trương rằng hiệu quả đã hiện hữu từ trước trong nguyên nhân. Và do thế, khi nói ‘Bất kì một sự vật gì tùy thuộc vào một nguyên nhân sẽ bắt đầu là một hiệu quả’ thì không có nghĩa là ‘nguyên nhân trở thành hiệu quả’. Nó lại cũng không có nghĩa là hiệu quả thì hoàn toàn khác hẳn nguyên nhân. Thế nên, có thể kết luận ‘nguyên nhân thì không thể đoạn diệt cũng không thường hằng’.

Như ngài Thánh Thiên (Aryadeva) nói: ‘Từ sự kiện rằng các sự vật sinh khởi vận hành chúng không là sự vật bị đoạn diệt; từ sự kiện rằng các sự vật chấm dứt vận hành chúng không là thường hằng’ (Catuhsataka , X, 25). Kinh Phổ Diệu (Lalitavistara) có nói: ‘Nếu có một hạt giống thì có một mầm, mặc dù hạt giống không là mầm, mà hạt giống cũng không hoàn toàn là một cái khác với mầm. Đây là lí do tại sao bản chất của các sự vật là không thể đoạn diệt cũng không là thường hằng’.

__________________

Candrakirti. Prasannapada.
Self and the way things really are
The truth in the world of cause and effect

Concerning the characterization of the way things are in the world of everyday Nagarjuna says:   

XVIII.10  What comes into existence dependent on something else cannot be that very thing; nor can it be wholly other either; therefore things neither perish completely nor are they everlasting.

Anything dependent on a cause comes to be as an effect. A rice sprout, for example, comes into existence in dependence on a rice seed and a complex of conditions like the soil, etc. But it cannot be said that the sprout is precisely the same thing as the seed, nor that the seed is precisely the same thing as the sprout because of the absurd consequence that what is born and what gives birth would be one and the same: that father and son would be identical. If there is no difference one would take the seed to exist in the sprout phase, i.e. as sprout, and one would take the sprout as the seed. The seed would thus be eternal because imperishable. Because this entails the doctrine of eternalism it would result in a mass of grievous faults; it would follow that action and its consequences were not real. Therefore it does not make sense to say that the seed is identical with the sprout. Nor is the one entirely other than the other; the sprout cannot be entirely other than the seed or it would follow that the sprout could sprout even apart from the seed. As Nagarjuna says: ‘If what is ‘other’ is entirely other than ‘the other’ it would be other without anything other’. It would follow if the seed persists in the sprout that the seed would be imperishable. This would entail the logical fault of holding that the effect pre-exists in the cause. And so, to say ‘Anything dependent on a cause comes to be an effect’ does not mean ‘the cause becomes the effect’. Nor again is the effect wholly other than the cause. Therefore, it is possible to conclude ‘the cause is neither perishable nor eternal’.

As Aryadeva says ‘From the fact that things function they are not nothing; from the fact that things cease functioning they are not eternal’. It is said in the Lalitavistara ‘If there is a seed there is a sprout, though the seed is not the sprout, nor is it wholly other. This is why the nature of things is neither perishable nor eternal’.  

______________

Phụ bản - Kinh Phổ Diệu (Lalitavistata Sutra)

*

Tất cả các pháp hữu vi hiện hữu 
thành lập từ các nguyên nhân và các duyên ;
các nguyên nhân tạo thành các duyên, các duyên tạo thành các nguyên nhân:
chúng tương trợ lẫn nhau. 
Những kẻ ngu không hiểu điều này.

*
"All composites exist 
proceeding from causes and conditions;
causes make conditions , and conditions, causes:
they support each other.
The ignorant do not understand this. "
(The Lalitavistara. The Voice of the Buddha. The Beauty of Compassion .Kinh Phổ Diệu . Vol 1, p. 263)

________________
Khi có một hạt giống, có một mầm 
nhưng hạt giống không là mầm. 
Nó không phải là một cái khác,
tuy nó cũng không là cái đồng nhất. 
Và do thế không có thường hằng hoặc đoạn diệt

*

When there is a seed, there is a sprout,
but the seed is not the sprout.
It is not something else, 
though it is not the same thing either. 
And so there is no permanence or ending.
(Lalitavistara. The Voice of the Buddha . The Beauty of Compassion- p.264 Kinh Phổ Diệu)
__________________
Nguyệt Xứng. Minh Cú Luận (p.185)

Kinh Phổ Diệu (Lalitavistara) có nói: ‘Nếu có một hạt giống thì có một mầm, mặc dù hạt giống không là mầm, mà hạt giống cũng không hoàn toàn là một cái khác với mầm. Đây là lí do tại sao bản chất của các sự vật là không thể đoạn diệt cũng không là thường hằng’.

*

Candrakirti. Prasannapada. Lucid Expostion of the Middle Way. p.185 . Nguyệt Xứng . Minh Cú Luận .

It is said in the Lalitavistara:
'If there is a seed, there is a sprout, though the seed is not the sprout, nor is it wholly other. This is why the nature of things is neither perishable nor eternal’ . 

________________

Phụ Bản - Giữa lòng cuộc đờiChân lí trong thế giới của nguyên nhânhiệu quả

Chan Li

Chúng ta có thể quán chiếu hạt giống và mầm trong thế giới của nguyên nhânhiệu quả trong 4 hình ảnh Lễ Tưởng Niệm Hai Bà Trưng để lí hội thông hiểu về giáo pháp của Phật trình bày trong Kinh Phổ Diệu , và Trung luận của  ngài Long ThọMinh cú luận của ngài Nguyệt Xứng.

“Do thế, nói rằng hạt giống thì đồng nhất với mầm là không hợp lí. Cũng không hợp lí khi nói hạt giống này thì hoàn toàn khác với mầm; mầm không thể hoàn toàn là một cái khác và hệ quả (or) tiếp theo là mầm có thể nảy mầm cho dù không có hạt giống”. (Nguyệt Xứng. Minh cú luận

Therefore it does not make sense to say that the seed is identical with the sprout. Nor is the one entirely other than the other; the sprout cannot be entirely other than the seed or it would follow that the sprout could sprout even apart from the seed.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7724)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22519)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8924)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
(Xem: 10158)
Cho đến nay, người ta vẫn chưa biết chính xác bản kinh Pháp Hoa này được thiết lập khi nào, ở đâu và được ghi lại bằng ngôn ngữ nào trước hết.
(Xem: 16860)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 8294)
Việc nghiên cứu Kinh Lăng-già, đã được ngài D.T.Suzuki thực hiện, qua tác phẩm “rất thẩm quyền”: Studies in the Lankavatara Sutra – nghiên cứu về kinh Lăng-già.
(Xem: 19113)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 8017)
Chính pháp trụ một nghìn năm, tượng pháp trụ một nghìn năm, mạt pháp trụ một vạn năm. Thuyết này trích trong Kì-hoàn tinh xá bi.
(Xem: 6971)
Nhị đếtục đếchân đế, còn gọi là chân lý tương đốichân lý tuyệt đối hay chân lý thế gianchân lý xuất thế gian.
(Xem: 8240)
Phật giáocách sống dựa trên việc rèn luyện tâm. Mục đích cao nhất là để đi trên con đường giải thoát khỏi đau khổ, và đạt đến Niết Bàn,
(Xem: 8579)
Trong 2 giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ nguyện vọng và dấn thân, chỉ với việc dấn thân chúng ta mới thọ giới Bồ tát.
(Xem: 9684)
Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 9548)
Thực chứng giáo lý duyên khởi, người thông tuệ hoàn toàn không vướng vào những quan điểm cực đoan...
(Xem: 7737)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại họcTrung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.
(Xem: 8306)
Đức Phật nói, nếu giữ tâm vững như hòn đảo trước phong ba bão táp của cuộc đời thì chúng ta sẽ có được chất liệu an vui, an vui về thái độ, tinh thần...
(Xem: 8308)
Phật dạy thân người do tứ đại gồm bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại hình thành; đất với gió lại không thuận với nhau, gió thổi mạnh thì đất rung rinh..
(Xem: 7951)
Phật dạy trong mỗi người chúng ta đều có phần tâm linh sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó;
(Xem: 8453)
Thực tại nền tảng của thế giới Hoa Nghiêm là Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Đây là Pháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là Pháp thân của tất cả chư Phật.
(Xem: 9987)
Dựa trên giả định các hoạt động của Tâm tạo ra những cấu trúc não bộ mới (Hebb 1949) cho biết ý tưởng, tình cảm có thể để lại dấu ấn
(Xem: 9011)
Là giai đoạn duy nhất trong kinh nghiệm cận tử liên quan đến việc nhận thức thế giới mang tính vật lý hơn là tính tâm linh...GIDEON LITCHFIELD
(Xem: 8803)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”
(Xem: 8049)
Nếu quý vị không có tuệ giác trong cung cách chính mình và mọi thứ thật sự là, quý vị không thể nhận ra và xa lánh những chướng ngại...
(Xem: 9964)
Tâm ta là vật quan trọng nhất. Mọi sự đến từ tâm, vì thế tất cả những gì không ai ưa thích mà giờ đây ta đối mặt cũng đến từ tâm.
(Xem: 9873)
Những giác quan của chúng ta góp phần cho sự si mê của chúng ta. Đối với những tính năng của chúng ta về thấy, nghe, ngửi, nếm, và cảm giác, những đối tượng dường như tồn tại trong tự bản chất của nó.
(Xem: 9371)
Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù.
(Xem: 10259)
Bất cứ ai quan tâm đến lịch sử Đức Phật đều muốn biết về bữa ăn cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà (Cunda) cúng dường,
(Xem: 14583)
Là vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Tuệ, Bồ Tát Văn Thù thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen.
(Xem: 9134)
Đức Phật là một bậc đạo sư thực tiễn. Mục tiêu duy nhất của Ngài là giải thích tất cả chi tiết trong vấn đề của khổ là thực tế phổ biến của cuộc đời.
(Xem: 8625)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 9776)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”.
(Xem: 15791)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 8205)
Bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh hay còn gọi là bảy pháp bất thối được đề cập trong bài kinh Đại bát Niết bàn, gồm: Có Tín tâm, có Tàm, có Quý, Đa văn, Tinh tấn, Chánh niệmTrí tuệ.
(Xem: 11132)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh.
(Xem: 11794)
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý tríthiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm.
(Xem: 8883)
Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
(Xem: 9112)
Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh
(Xem: 12034)
Chữ “giác ngộ” trong Đạo Phật, tiếng Pali và Sanskrit đều là “Bodhi”. Tiếng Anh là “enlightenment” hay “awakening”
(Xem: 9440)
Chúng tôi đã thuyết giảng về những cảm xúc đau khổ và các tai hại mà chúng sẽ gây ra cho việc hành trì tu tập của chúng ta.
(Xem: 21756)
Chúng ta đã biết đời là vô thường đau khổ, nhưng chúng ta còn cố chấp cái ngã, cái ta, cố bám víu vào cái của ta, thì chúng ta không thể trừ bỏ được kiêu mạn,
(Xem: 15302)
Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoátgiác ngộ tối hậu...
(Xem: 8680)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộVãng sanh khác nhau thế nào?
(Xem: 9382)
Khi đã biết nghiệp báo nhân quả không thể tránh, khủng khiếp như thế, chúng ta phải cố gắng tránh làm ác từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm
(Xem: 7828)
Khảo sát hiện tượng "hội nhập văn hóa" tại một trung tâm Phật giáovị trí quan trọng vào hàng nhất nhì ở thời Lý-Trần như chùa Quỳnh Lâm...
(Xem: 9416)
Ta-bà là chu kỳ của sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu
(Xem: 9462)
Chúng ta sợ đủ thứ: sợ chết, sợ khốn khổ, sợ bị chê bai chỉ trích, và trên tất cả, hình như chúng ta rất sợ sự thật.
(Xem: 10442)
Con người sanh ra trên cõi đời này đã mang theo nghiệp nhân của đời trước, lúc lớn lên lại gây tạo thêm nghiệp mới.
(Xem: 8881)
Tất cả việc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích cho chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo.
(Xem: 14896)
Mặc dù các tôn giáo nhất là Phật giáo đều nhấn mạnh đến vấn đề Nhân Quả - Nghiệp báo, song Luật Nhân quả không phải là của riêng một tôn giáo nào, nó là một luật của tự nhiên
(Xem: 8043)
“Sống Tỉnh Giác” là sống tỉnh chứ không còn ngủ mê nữa. Đây là đi vào thực hành chứ không phải là học, hiểu hay lý luận suông.
(Xem: 8360)
Sau khi trở thành phật tử, có tam qui, ngũ giới rồi, người phật tử phải sống ra sao để an lạc hạnh phúc?
(Xem: 8441)
Tất cả chúng ta đều có duyên lớn được gặp Phật pháp, được học Phật, được có người chỉ đường, có bản đồ sẵn hết rồi, chỉ còn một việc là bước đi để trở về.
(Xem: 8856)
‘Tâm’ là chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là ‘giữ tâm ý trong sạch ’ , ‘
(Xem: 9156)
Chánh Giáo (Tam Bồ Đề_ Sambhodhi) cùng Giải Thoátmục đích chung của Phật và các đệ tử Thanh Văn...
(Xem: 8658)
Cầu xin mà có hiệu qủa, chẳng có ai không cầu, cứ ngồi đó mà cầu nguyện là tự có tất cả, chẳng phải làm việc vất vả, cần gì phải học hành cực nhọc....
(Xem: 8224)
Phật Giáo Ấn ĐộTây Tạng phân loại và hệ thống hóa toàn bộ giáo huấn của Đức Phật thành ba chu kỳ khác nhau gọi là "ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp"
(Xem: 7770)
Con Đường Của Bụt là chủ đề của khoá tu An Cư Kiết Đông năm 2008 - 2009. Đây là con đường Bụt đã đi, và chúng ta đang đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
(Xem: 9942)
con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ.
(Xem: 7954)
Con người luôn sống trong sợ hãi từ hiện tại cho đến vị lai, là do chính mình gây tạo nên bằng những hành động, lời nóiý nghĩ bất thiện
(Xem: 7894)
Kinh điển thường ví giận dữ như một cơn điên. Người điên cuồng không kiềm chế được ý thức nên hành vi, cử chỉ, việc làm gây thương tổn bản thân và người khác.
(Xem: 6993)
Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant