Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhập Trung Đạo: Con Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại BiTrí Tuệ (bài 3)

13 Tháng Ba 201615:35(Xem: 7932)
Nhập Trung Đạo: Con Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại Bi Và Trí Tuệ (bài 3)

Nguyệt Xứng (c. 570 - 650) 
NHẬP TRUNG ĐẠO
CON ĐƯỜNG BỒ TÁT TÍCH HỢP ĐẠI BITRÍ TUỆ 
Kết Luận (Bài 3) 

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

Bản Anh: Introduction to the Middle Way. Chandrakirti’s Madhyamakavatara with  Commentary by Jamgon Mipham. Translated by The Padmakara Translation Group (2002). Shambhala, 2004.

Nhập Trung ĐạoCon Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại Bi Và Trí Tuệ

 

Phần 1. Nhập Trung Đạo. Chương XI

Tụng  XI. 52

Con đường tu tập này tôi, tỉ khưu Nguyệt Xứng,
Tập hợp từ các kệ tụng giảng dạy Trung Đạo,
Và tôi viết xuống đây một cách chính xác,
Theo kinh văn và các chỉ giáo.

Tụng XI. 53

Chỉ có các kệ tụng về Trung Đạo đề khởi một hành trình
như giáo nghĩa này đã đề khởi.

Giáo pháp được giảng giải nơi đây cũng không tìm thấynơi khác
Kẻ trí và kẻ có học vấn nên thông hiểu rõ ràng điều này.

Tụng XI. 54

Bị kinh sợ do hiển tướng phản chiếu của đại hải trí tuệ siêu việt của ngài Long Thọ
Một số hữu tình tránh né và đứng xa truyền thống tuyệt vời này
Giờ đây, sự khai hiển những kệ tụng này tương tợ cam lộ đến từ sự khai hiển của hoa kumuta dưới ánh trăng
Trong tính đức này các hi vọng của Nguyệt Xứng đã được thể hiện hoàn hảo.

Kệ tụng XI . 55

Kẻ từng an trú với tính như thị sẽ thật chứng tính như thị thâm mật và kinh sợ được giảng nơi đây.
Nhưng các kẻ khác sẽ không thông hiểu, mặc dù họ có tu học
Do vậy, khi nhận thấy các bộ luận khác do người bình thường soạn thảo đề khởi bản ngã
Bạn hãy buông bỏ các vui thích nơi các bộ luận sai lệch với giáo pháp được giảng dạy ở đây.

Kệ tụng XI. 56

Nguyện phúc đức tôi nhận được qua sự giải thích Trung Luận của Đại sư Long Thọ tăng trưởng tất cả các phương tới các biên tế của hư không
Nguyện phúc đức này trong sáng như các ánh sao mùa thu chiếu trên bóng tối chạng vạng của hư vọng nơi tâm tôi .
Và nhận phúc đức vô lượng lợi ích như thế giống như nhận viên ngọc trên đầu con rắn hổ mang của tâm   
Nguyện cho các hữu tình tất cả thế giới thật chứng tính như thị, tiến nhanh tới các địa của chư Thiện Thệ (chư Phật).  

-----

Phần 2: Bản giải thích Nhập Trung Đạo của Nguyệt Xứng

KẾT  LUẬN

I. Kết luận của phần chính văn của bộ luận Nhập Trung Đạo

A.  Bản văn được viết như thế nào

1 Cấu trúc của bản văn

a. Bản văn đặt căn bản trên gì [Tụng 52]

b. Bộ luận, được viết theo phong cách này, tuyệt vời phi thường [Tụng 53]

2. Tại sao bản văn này được viết

a. Mục đích của nó [Tụng 54]

b. Một mệnh lệnh bảo tồn riêng chỉ bộ luận này [Tụng 55]

B. Sự hồi hướng phúc đức do bởi viết bản văn này [Tụng 56]

II. Kết luận về bộ luận

A. Tác giả của bộ luận

B. Dịch giả bản Tạng ngữ

C. Lời cuối cho bản giải thích -- [Mipham Rinpoche viết]

Lời cuối của các nhà biên tập Tây Tạng  

------------------------

Bản giải thích Nhập Trung Đạo của Nguyệt Xứng

KẾT  LUẬN

I. Kết luận của phần chính văn của bộ luận Nhập Trung Đạo

A. Bản văn được viết như thế nào

1. Cấu trúc của bản văn

a. Bản văn đặt căn bản trên gì [Tụng 52]

Tụng  XI. 52

Con đường tu tập này tôi, tỉ khưu Nguyệt Xứng,

Tập hợp từ các kệ tụng giảng dạy Trung Đạo,

Và tôi viết xuống đây một cách chính xác

Theo kinh văn và các chỉ giáo.

*

Bộ luận này, giải thích một cách không sai lạc tri kiến của ngài Long Thọ, được tích hợp từ Trung Luận, Các kệ tụng căn bản về Trung Đạo và các bộ luận Trung Quán khác. Tác phẩm được viết bởi Tỉ khưu Nguyệt Xứng (570-650), ngài viết nó hòa hợp với các bản kinhý nghĩa tối hậu (Kinh liễu nghĩa), cùng với các chỉ giáo tinh yếu thực tế của ngài Long Thọ.

b. Bộ luận, được viết theo phong cách này, tuyệt vời phi thường [Tụng53]

Tụng XI. 53

Chỉ có các kệ tụng về Trung Đạo đề khởi một hành trình

như giáo nghĩa này đã đề khởi.

Giáo pháp được giảng giải nơi đây cũng không tìm thấynơi khác.

Kẻ trí và kẻ có học vấn nên hiểu rõ điều này.

*

Các kẻ hữu học có thể biết chắc chắn rằng ngoài Các tụng căn bản về Trung đạo (Trung luận), giáo pháp đầy đủ và không sai lầm về tính không / chân không diệu hữu thì không được tìm thấy trong các bộ luận khác . Hơn thế nữa, bản văn này từ các tiếp cận khởi đầu không có các đề khởi sự hiện hữu của các hiện tượng “theo tự tính của chúng” trên phương diện tương đối (phương diện thế tục), và sự không đề khởi này cũng không tìm thấy trong các bộ luận khác. Hệ quả là điều này chỉ xuất hiện trong các bản văn Trung quán.

(Furthermore, the approach set forth in the present text, wherein no assertion is made as to the existence of phenomena” according to their own characteristics” on the relative level, is not to be found in other treatises, which consequently have only the appearance of Madhyamika texts)

2. Tại sao bản văn này được viết

a. Mục đích của nó [Tụng54]

Tụng XI. 54

Bị kinh sợ do hiển tướng phản chiếu của đại hải trí tuệ siêu việt của ngài Long Thọ

Một số hữu tình tránh né và đứng xa truyền thống tuyệt vời này

Giờ đây, sự khai hiển những kệ tụng này tương tợ cam lộ từ sự khai hiển nụ hoa kumuta dưới ánh trăng

Trong tính đức này các hi vọng của Nguyệt Xứng đã được thể hiện hoàn hảo.

*

Lo sợ bởi các từ ngữ như “vô sinh”, “tính không” (unborn, emptiness), và v.v…, chúng thì tương tợ màu sắc tối thẫm của vùng nước mênh mông sâu thẳm của trí tuệ của ngài Long Thọ một số người trong quá khứ [các nhà Duy Thức], giống như đám trẻ đang sợ hãi, đã bác bỏ truyền thống tuyệt hảo của ngài và trốn chạy nó. Nhưng giờ đây Các tụng căn bản về Trung Đạo như các nụ hoa kumuta (tương tợ hoa súng /water lily) được thấm nhuận cam lộ của bộ luận Nhập Trung Đạo, đã bừng nở thành những đoá hoa . Như vậy những mong ước của ngài Nguyệt Xứng đều được thực hiện.

Cũng như các trẻ em sợ biển và tránh xa nó, Thế Thân, Trần Na, Hộ Pháp, và các vị khác, sợ hãi ý niệm “vô sinh” (“unborn”),  tính không,  trong các tác phẩm của Long Thọ, và né tránh chúng [Các ngài thật chứng tính không theo phương pháp khác. Chú thích của bản Việt]. Tuy thế, cũng như trong một cái hồ, các hoa kumuta mĩ lệ nở trong ánh sáng trắng trăng tròn, Nguyệt Xứng đã làm cho các nụ hoa kumuta của các bộ luận của ngài Long Thọ nở hoa cho nên giờ đây vùng nước đầy hoa kumuta của hồ nước trí tuệ của ngài Long Thọ có thể làm thoả mãn các hi vọng và các nguyện vọng của các hữu tình.   

Trước đây [khi Nhập Trung Đạo của Nguyệt Xứng chưa xuất hiện], một số người đã xa cách với đại hải trí tuệ của ngài Long Thọ và do thế không thể thọ hưởng được nguồn nước của nó. Nhưng giờ đây, xuyên qua phúc duyên của họ, họ có thể hưởng dụng thành tựu của đại hải nguyện vọng.

Rendawa [Thầy của Tsongkhapa] diễn giải kệ tụng này hàm ý bộ luận của Nguyệt Xứng khai mở chân lí diệu nghĩa thâm mật như là chúng là những nụ hoa kumuta; và chính là do được thấm nhuận với giọt sương tương tợ cam lồ của các chỉ giáo mà Nguyệt Xứng hoàn thành các mong ước của các hữu tình. Các kệ tụng căn bản về Trung Đạo đã sinh khởi từ đại hải trí tuệ của ngài Long Thọ như những nụ hoa kumuta, và những nụ hoa này nay đã nở trong ánh sáng trí tuệ của ngài Nguyệt Xứng. Cam lộ của hai chân lí có trong bộ luận, vốn có tám tính đức [không diệt / sinh / đoạn/ thường / đến / đi / đồng nhất/ dị biệt. ĐHP], đã cung cấp đầy đủ các hi vọng và các mong muốn của tất cả các hữu tình chiếu theo các mong muốn của họ.

b. Một mệnh lệnh bảo tồn riêng chỉ bộ luận này [Tụng 55]

Kệ tụng XI. 55

Kẻ từng an trú với tính như thị sẽ thật chứng tính như thị thâm mật, kinh sợ được giảng nơi đây.

Nhưng các kẻ khác sẽ không thông hiểu, mặc dù họ có tu học

Do vậy, nhận thấy các bộ luận khác do người bình thường soạn thảo đề khởi bản ngã

Bạn hãy không nên vui thích các bộ luận sai lệch với giáo pháp được giảng dạy ở đây.

*

Chân lí thâm mậttối hậu thì được thật chứng chỉ bởi những kẻ sở hữu một lòng mong cầu vững chắcsâu xa đối với nó. Các kẻ khác không thể thật chứng được nó, dù họ có kiến thức sâu rộng do nghiên cứu bản văn. Nó cũng thật là một nguồn sợ hãi cho các kẻ có tâm trí không muốn lắng nghe ý kiến người khác (narrow mind).

Các bộ luận do tâm trí bình thường tưởng tượng viết thành, thì không theo truyền thống trí tuệ của Phật. Thế nên bạn không nên cúi đầu tin tưởng vào các giáo pháp và các vị thầy khẳng định có tự ngã của con người, và thay vào đó bạn nên giữ vững quan điểm đối với bản văn này có nguyên nhân từ ngài Long Thọ.

B. Sự hồi hướng phúc đức do bởi viết bản văn này [Tụng 56]

Kệ tụng XI. 56

Nguyện phúc đức tôi nhận được qua sự giải thích Trung Luận của Đại sư Long Thọ tăng trưởng tất cả các phương tới các biên tế của hư không

Nguyện phúc đức này trong sáng như các ánh sao mùa thu chiếu trên bóng tối chạng vạng của hư vọng của tâm tôi .

Và nhận phúc đức vô lượng lợi ích như thế giống như nhận viên ngọc trên đầu con rắn hổ mang của tâm   

Nguyện cho các hữu tình tất cả thế giới thật chứng tính như thị, tiến nhanh tới các địa của chư Thiện Thệ (chư Phật). 

*

Ở đây ngài Nguyệt Xứng hồi hướng phúc đức hình thành từ bản văn của ngài, và xuyên qua các trích dẫn kinh văn và sử dụng lí luận, ngài giải thích một cách sáng tỏ truyền thống giáo pháp tuyệt vời của ngài Long .  Ngài cầu nguyện rằng nó có thể đi tới mức xa nhất của hư không. Ngài nói, Mong là bầu trời u tối của tâm, bị hành hạ bởi các cảm xúc tiêu cực, trở thành trong sáng giống như các ánh sao mùa thu. Ngài cũng cầu nguyện rằng toàn thể vô lượng vô biên hữu tình có thể thật chứng bản chất thâm mậttối hậu của các hiện tượng, như là họ nhận lấy viên ngọc từ con rắn hổ mang (nói cách khác, tâm này của họ) -- và nhanh chóng đến trạng thái phật.  Ngài Rendawa diễn giải kệ tụng này hàm ý sự hồi hướng các phúc đức toàn diện theo phong cách như thế thì tương tợ như các ngôi sao sáng rực trong bầu trời ban đêm, tâm bị che phủ bởi hư vọng. Và nó như viên ngọc trên đỉnh đầu của con rắn hổ mang, tâm bị bao phủ với tâm niệmhư vọng.    

Nguyện phúc đức tôi nhận được qua sự giải thích Trung Luận của Đại sư Long Thọ tăng trưởng tất cả các phương tới các biên tế của hư không

Nguyện phúc đức này trong sáng như các ánh sao mùa thu chiếu trên bóng tối chạng vạng của hư vọng nơi tâm tôi.

Và nhận phúc đức vô lượng lợi ích như thế giống như nhận viên ngọc trên đầu con rắn hổ mang của tâm   

Nguyện cho các hữu tình tất cả thế giới thật chứng tính như thị, tiến nhanh tới các địa của chư Thiện Thệ (chư Phật). 

II. Kết luận về bộ luận

A. Tác giả của bộ luận

Nhập Trung Đạo giải thích sáng tỏ giáo pháp thâm mật về tính không /chân không diệu hữugiáo pháp vạn hạnh đại bi về các tính đức của đạo lộ và thành quả. Đại sư Nguyệt Xứng viết luận này. Sinh từ miền đất của Phổ Quát, ngài là một vị thầy về tính giác (Vidyadhara) hoàn toàn chăm chú trong chân lí của tối thượng thừa. Ngài không xa cách với trí tuệđại bi, và các đối nghịch không thể tấn công ngài. Ngài thành tựu thiền tịnh chỉ, nhờ đó ngài có thể cung cấp sữa từ tranh vẽ một con bò và do thế xoá bỏ niềm tin cứng cỏi của các hữu tình vào hiện hữu tự tính của các hiện tượng.

B. Dịch giả bản Tạng ngữ

Bản văn này được dịch từ Sanskrit sang Tạng ngữ theo một bản văn Kashmiri bởi Tu viện trưởng Ấn dộ Tilaka Kalasha và dịch giả Tây Tạng tăng sĩ Patsap Nyima Drak, khi cư trú trong Tự viện Viên ngọc ẩn mật (Hidden Jewel Temple) ở trung tâm thành phố “Vượt ngoài sự so sánh” (Anuparna; Beyond Compare)  của xứ Kashsimir, trong thời kì cai trị của vua Shri Aryadeva. Tiếp theo, trong tự viện Rasa Ramoche ( Lhasa), một phiên bản cuối cùng, được tu chính căn cứ vào một bản văn Magadha (bản Ma kiệt đà) bởi tu viện trưởng Ấn độ Kanakavarman và cùng một dịch giả Patsap Nyima Drak.

C. Lời cuối cho bản giải thích -- [Mipham Rinpoche viết]

“Là” và “Không Là”, hai cực đoan, khi chúng được buông bỏ, Trung Đạo hiện ra,

trí tuệ không nhơ nhuốm nhận biết một cách không sai lầm.

Trí tuệ này làm êm dịu các sầu muộn gây nên bởi các tri kiến nhị nguyên.  

Kẻ nói “hiện hữu”, kẻ nói “không hiện hữu”

Trong khi các kẻ khác tuyên bố rằng“Mọi sự vật đều là không gì cả”.

Người ta đi lạc tới bờ này hoặc bờ kia, và mong chờ với sợ hãi như vậy,

Họ giữ một đối tượng khi họ thiền định “một cách phi đối tượng”!

Nhưng khi “Là” và “Không Là” -- các đối tượng được tưởng tượng này -- bị xoá bỏ bởi lí tính của duyên khởi,

Tính xác thực toàn hảo thì đạt được rằng tính không và hiển tướng là đồng thời.

Điều này chỉ được tìm thấy trong truyền thống tuyệt vời của ngài Long Thọ.

Tính thâm mật tuyệt vời này, vua của các tri kiến, được quy kết bởi lí luận,

Có thể làm hoảng sợ các trái tim yếu đuối,

Giờ đây ở đây các giòng suối của trí tuệ của Phật

Tự nhiên tới được các giòng sông của chúng

*

Thế nên tất cả những kẻ khao khát đạo lộ thâm thúy này,

Hãy làm cho chúng thông hiểu, với các phúc duyên có sẵn

Rằng Như thị tính nên được thật chứng.

thông hiểu như vậy, bằng nghiên cứu và chiếu soi,

Chúng sẽ thưởng thức ý nghĩa Như thị tính.

*

Nói chung, bản sơ đồ bản văn chỉ thuần là bản ghi nhận chi tiết,

Nhưng có những điểm diễn tả tinh yếu của bản văn

Bản sơ đồ hiện nay, được khảo sát cẩn thận với tính trí tuệ trong sáng

Sẽ chứng tỏ nó là cao nhất trong tất cả các bản sơ đồ.

*

Kệ tụng quy kết ngắn này được viết trong một một buổi giảng thuyết chi tiết về Nhập Trung Đạo, do Mati [ Jamgon Mipham Rinpoche], một vị thầy  về năm môn khoa học (ngũ minh) và là một thành viên của học viện Dzogchen ở Kham, một nơi mà kinh văn và lí luận vang lên như sư tử hống. Do phúc đức của bản văn, nguyện cho giáo nghĩa về Tinh Yếu Kim Cương của Tính giác Quang Chiếu trải rộng khắp mọi nơi và mọi thời !

Tốt lành

Lời cuối của các nhà biên tập Tây Tạng   

Hệ thống Trung Quán hệ quả là các quy kết tối hậu (ultimate tenet), vì nó  bao hàm ý nghĩa duyên khởitính không, pháp tính tối hậu bất khả tư nghị trong đó không có sự phân chia giữa  hiện tướngtính không. Nhiều kẻ tuyên bố chủ trương tri kiến này nhưng bị  hướng đến lầm lạc bởi vì có  khuynh hướng thói quen mạnh mẽ thấy hai chân lí là dị biệt (to see the two truths as diverging). Thế nên để làm đẹp cái cổ của những kẻ khát vọng tính bình đẳng của tất cả các hiện tượng, ở đây là vòng đeo cổ bằng bảo ngọc mà nó sẽ xoá bỏ sự sa lầy do nắm giữ các lập trường bản thể học cực đoan -- một vòng hoa pha lê trong suốt không tì vết, một bản giải thích đơn giản, hữu hiệu và cao siêu. Nó đã sinh khởi từ đại hải của trí tuệ siêu việt, thâm mậtquảng đại và là một sự lí luận làm an tĩnh tất cả (all-subduing reasoning) mở đầu một hành trình bản lai thanh tịnh của tất cả các hiện tượngcông bố tính không trong tất cả huy hoàng của nó (setting forth the primordial purity of all phenomena and proclaiming emptiness in all its glory). Nó là cờ hiệu của chiến thắng, mà đỉnh cao nhất được trang nghiêm bởi trí tuệ tối hậu của Đức Phật. Nó nên được trao cho những kẻ sẵn sàng nhận các giáo pháp thâm mật. Tuy là tâm trí nhị nguyên, nó sử dụng xác nhận chính xác bởi bằng chứng và sự luận bác để thâm nhập phương diện vượt ngoài nó, nơi mà không có sự vật gì để xác nhận và không có sự vật gì để không thừa nhận, bản chất căn bản của như thị tính là vượt ngoài tất cả các khẳng định. Đây là pháp thân -- sự tịch tĩnh của tất cả các cấu trúc của tưởng, hư không rất ẩn mật của tất cả chư Phật.  Đây là đạo lộ tuyệt vời của các vị thánh, từ bi tạo nên bởi nhiều tính đức tuyệt diệu, có khả năng nhổ hết (khi mà mặt trờimặt trăng vẫn chuyển vận qua bầu trời) các thứ vảy và các cườm làm không thể nhìn , lí luận mà chúng làm cho chúng ta nắm giữ các tướng trạng hiện tượng là thật.  Hướng tới mục đích đó, nguyện cho bản văn thiện hảo này vang lên như diệu âm của một cái trống. Nguyện nó đánh thức tất cả hữu tình thoát khỏi giấc ngủ của vô minh

Trong cách này, kiến lập công trình vô úy của Văn Thù,

Và trong cách này đặt tất cả hữu tình trên Trung Đạo,

An lập Phật thừanhất nhưtối hậu

Nguyện bản giải thích này hoàn thành các ước mong của chư Phật và chư Bồ tát.

Những ghi chú và giải thích này về Nhập Trung Đạo được viết bởi Mipham Rinpoche Jamyang Namgyal, một vị thầy giống như một sư tử của truyền thống Phật giáo, một trí giả về Trung Đạo của Đại Thừa, đã , với sự trợ giúp của Kunzang Pelden (một Tam Tạng pháp sư), kết tập thành một quyển sách bởi Situpa Chokyi Gyamso . Công việc này được hoàn tất theo yêu cầu của Zhechen Dentsap Rinpoche ( Giáo thọ về Giáo nghĩa của Các bản cựu dịch), trong miền đông Tây Tạng, ở Kathog Dorje Den, trong tu viện Norbu’i Lhunpo, nơi các giáo pháp của Phật được giải thích và được tu tập.
Nhờ sự kiện này, nguyện cho tất cả hữu tình có một thực chứng trực tiếp về trí tuệ siêu việt của đấng Tối Thắng.   

--------------------------------------------------------------------

Chú thích của bản dịch Việt

Kệ tụng XI. 54 Chú thích của bản dịch Việt:

Trong Phật tính / Buddha Nature, ngài Di Lặc giảng:

-- Khi mặt trời chiếu sáng rực, các đoá hoa sen và các thứ tương tợ tung cánh nở, nhưng đồng thời các hoa kumuta (một loại hoa súng; water lily) khép cánh một cách hoàn toàn. Mặt trời không biểu lộ bất kì ý nghĩ làm lợi ích hay không làm lợi ích cho sự khai mở hay khép lại của các cánh hoa sinh sống trong nước. Mặt trời của Đức Thế Tôn cũng hành động như thế. (Buddha Nature. The Mahayana Uttaratantra Shastra by Arya Maitreya. Snow Lion Publication, 2000 -  p.67)

Chú thích của bản Việt: Hoa kumuta chỉ nở dưới ánh trăng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30400)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30665)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21021)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20204)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19440)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24395)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30664)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15690)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27789)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19768)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15580)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23258)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23575)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17532)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15695)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21879)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38012)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22179)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23260)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21355)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28421)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32553)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25183)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34690)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22948)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27724)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31311)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13599)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25193)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27841)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22099)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20734)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22219)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27143)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24153)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21901)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14715)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23157)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24033)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21110)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14203)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19943)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22509)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14076)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28057)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22828)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28212)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10989)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28514)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31579)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26180)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14960)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28048)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7445)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25365)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20708)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21132)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12239)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11915)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12809)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant