Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Nhập Trung Đạo: Con Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại BiTrí Tuệ (bài 3)

13 Tháng Ba 201615:35(Xem: 7889)
Nhập Trung Đạo: Con Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại Bi Và Trí Tuệ (bài 3)

Nguyệt Xứng (c. 570 - 650) 
NHẬP TRUNG ĐẠO
CON ĐƯỜNG BỒ TÁT TÍCH HỢP ĐẠI BITRÍ TUỆ 
Kết Luận (Bài 3) 

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

Bản Anh: Introduction to the Middle Way. Chandrakirti’s Madhyamakavatara with  Commentary by Jamgon Mipham. Translated by The Padmakara Translation Group (2002). Shambhala, 2004.

Nhập Trung ĐạoCon Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại Bi Và Trí Tuệ

 

Phần 1. Nhập Trung Đạo. Chương XI

Tụng  XI. 52

Con đường tu tập này tôi, tỉ khưu Nguyệt Xứng,
Tập hợp từ các kệ tụng giảng dạy Trung Đạo,
Và tôi viết xuống đây một cách chính xác,
Theo kinh văn và các chỉ giáo.

Tụng XI. 53

Chỉ có các kệ tụng về Trung Đạo đề khởi một hành trình
như giáo nghĩa này đã đề khởi.

Giáo pháp được giảng giải nơi đây cũng không tìm thấynơi khác
Kẻ trí và kẻ có học vấn nên thông hiểu rõ ràng điều này.

Tụng XI. 54

Bị kinh sợ do hiển tướng phản chiếu của đại hải trí tuệ siêu việt của ngài Long Thọ
Một số hữu tình tránh né và đứng xa truyền thống tuyệt vời này
Giờ đây, sự khai hiển những kệ tụng này tương tợ cam lộ đến từ sự khai hiển của hoa kumuta dưới ánh trăng
Trong tính đức này các hi vọng của Nguyệt Xứng đã được thể hiện hoàn hảo.

Kệ tụng XI . 55

Kẻ từng an trú với tính như thị sẽ thật chứng tính như thị thâm mật và kinh sợ được giảng nơi đây.
Nhưng các kẻ khác sẽ không thông hiểu, mặc dù họ có tu học
Do vậy, khi nhận thấy các bộ luận khác do người bình thường soạn thảo đề khởi bản ngã
Bạn hãy buông bỏ các vui thích nơi các bộ luận sai lệch với giáo pháp được giảng dạy ở đây.

Kệ tụng XI. 56

Nguyện phúc đức tôi nhận được qua sự giải thích Trung Luận của Đại sư Long Thọ tăng trưởng tất cả các phương tới các biên tế của hư không
Nguyện phúc đức này trong sáng như các ánh sao mùa thu chiếu trên bóng tối chạng vạng của hư vọng nơi tâm tôi .
Và nhận phúc đức vô lượng lợi ích như thế giống như nhận viên ngọc trên đầu con rắn hổ mang của tâm   
Nguyện cho các hữu tình tất cả thế giới thật chứng tính như thị, tiến nhanh tới các địa của chư Thiện Thệ (chư Phật).  

-----

Phần 2: Bản giải thích Nhập Trung Đạo của Nguyệt Xứng

KẾT  LUẬN

I. Kết luận của phần chính văn của bộ luận Nhập Trung Đạo

A.  Bản văn được viết như thế nào

1 Cấu trúc của bản văn

a. Bản văn đặt căn bản trên gì [Tụng 52]

b. Bộ luận, được viết theo phong cách này, tuyệt vời phi thường [Tụng 53]

2. Tại sao bản văn này được viết

a. Mục đích của nó [Tụng 54]

b. Một mệnh lệnh bảo tồn riêng chỉ bộ luận này [Tụng 55]

B. Sự hồi hướng phúc đức do bởi viết bản văn này [Tụng 56]

II. Kết luận về bộ luận

A. Tác giả của bộ luận

B. Dịch giả bản Tạng ngữ

C. Lời cuối cho bản giải thích -- [Mipham Rinpoche viết]

Lời cuối của các nhà biên tập Tây Tạng  

------------------------

Bản giải thích Nhập Trung Đạo của Nguyệt Xứng

KẾT  LUẬN

I. Kết luận của phần chính văn của bộ luận Nhập Trung Đạo

A. Bản văn được viết như thế nào

1. Cấu trúc của bản văn

a. Bản văn đặt căn bản trên gì [Tụng 52]

Tụng  XI. 52

Con đường tu tập này tôi, tỉ khưu Nguyệt Xứng,

Tập hợp từ các kệ tụng giảng dạy Trung Đạo,

Và tôi viết xuống đây một cách chính xác

Theo kinh văn và các chỉ giáo.

*

Bộ luận này, giải thích một cách không sai lạc tri kiến của ngài Long Thọ, được tích hợp từ Trung Luận, Các kệ tụng căn bản về Trung Đạo và các bộ luận Trung Quán khác. Tác phẩm được viết bởi Tỉ khưu Nguyệt Xứng (570-650), ngài viết nó hòa hợp với các bản kinhý nghĩa tối hậu (Kinh liễu nghĩa), cùng với các chỉ giáo tinh yếu thực tế của ngài Long Thọ.

b. Bộ luận, được viết theo phong cách này, tuyệt vời phi thường [Tụng53]

Tụng XI. 53

Chỉ có các kệ tụng về Trung Đạo đề khởi một hành trình

như giáo nghĩa này đã đề khởi.

Giáo pháp được giảng giải nơi đây cũng không tìm thấynơi khác.

Kẻ trí và kẻ có học vấn nên hiểu rõ điều này.

*

Các kẻ hữu học có thể biết chắc chắn rằng ngoài Các tụng căn bản về Trung đạo (Trung luận), giáo pháp đầy đủ và không sai lầm về tính không / chân không diệu hữu thì không được tìm thấy trong các bộ luận khác . Hơn thế nữa, bản văn này từ các tiếp cận khởi đầu không có các đề khởi sự hiện hữu của các hiện tượng “theo tự tính của chúng” trên phương diện tương đối (phương diện thế tục), và sự không đề khởi này cũng không tìm thấy trong các bộ luận khác. Hệ quả là điều này chỉ xuất hiện trong các bản văn Trung quán.

(Furthermore, the approach set forth in the present text, wherein no assertion is made as to the existence of phenomena” according to their own characteristics” on the relative level, is not to be found in other treatises, which consequently have only the appearance of Madhyamika texts)

2. Tại sao bản văn này được viết

a. Mục đích của nó [Tụng54]

Tụng XI. 54

Bị kinh sợ do hiển tướng phản chiếu của đại hải trí tuệ siêu việt của ngài Long Thọ

Một số hữu tình tránh né và đứng xa truyền thống tuyệt vời này

Giờ đây, sự khai hiển những kệ tụng này tương tợ cam lộ từ sự khai hiển nụ hoa kumuta dưới ánh trăng

Trong tính đức này các hi vọng của Nguyệt Xứng đã được thể hiện hoàn hảo.

*

Lo sợ bởi các từ ngữ như “vô sinh”, “tính không” (unborn, emptiness), và v.v…, chúng thì tương tợ màu sắc tối thẫm của vùng nước mênh mông sâu thẳm của trí tuệ của ngài Long Thọ một số người trong quá khứ [các nhà Duy Thức], giống như đám trẻ đang sợ hãi, đã bác bỏ truyền thống tuyệt hảo của ngài và trốn chạy nó. Nhưng giờ đây Các tụng căn bản về Trung Đạo như các nụ hoa kumuta (tương tợ hoa súng /water lily) được thấm nhuận cam lộ của bộ luận Nhập Trung Đạo, đã bừng nở thành những đoá hoa . Như vậy những mong ước của ngài Nguyệt Xứng đều được thực hiện.

Cũng như các trẻ em sợ biển và tránh xa nó, Thế Thân, Trần Na, Hộ Pháp, và các vị khác, sợ hãi ý niệm “vô sinh” (“unborn”),  tính không,  trong các tác phẩm của Long Thọ, và né tránh chúng [Các ngài thật chứng tính không theo phương pháp khác. Chú thích của bản Việt]. Tuy thế, cũng như trong một cái hồ, các hoa kumuta mĩ lệ nở trong ánh sáng trắng trăng tròn, Nguyệt Xứng đã làm cho các nụ hoa kumuta của các bộ luận của ngài Long Thọ nở hoa cho nên giờ đây vùng nước đầy hoa kumuta của hồ nước trí tuệ của ngài Long Thọ có thể làm thoả mãn các hi vọng và các nguyện vọng của các hữu tình.   

Trước đây [khi Nhập Trung Đạo của Nguyệt Xứng chưa xuất hiện], một số người đã xa cách với đại hải trí tuệ của ngài Long Thọ và do thế không thể thọ hưởng được nguồn nước của nó. Nhưng giờ đây, xuyên qua phúc duyên của họ, họ có thể hưởng dụng thành tựu của đại hải nguyện vọng.

Rendawa [Thầy của Tsongkhapa] diễn giải kệ tụng này hàm ý bộ luận của Nguyệt Xứng khai mở chân lí diệu nghĩa thâm mật như là chúng là những nụ hoa kumuta; và chính là do được thấm nhuận với giọt sương tương tợ cam lồ của các chỉ giáo mà Nguyệt Xứng hoàn thành các mong ước của các hữu tình. Các kệ tụng căn bản về Trung Đạo đã sinh khởi từ đại hải trí tuệ của ngài Long Thọ như những nụ hoa kumuta, và những nụ hoa này nay đã nở trong ánh sáng trí tuệ của ngài Nguyệt Xứng. Cam lộ của hai chân lí có trong bộ luận, vốn có tám tính đức [không diệt / sinh / đoạn/ thường / đến / đi / đồng nhất/ dị biệt. ĐHP], đã cung cấp đầy đủ các hi vọng và các mong muốn của tất cả các hữu tình chiếu theo các mong muốn của họ.

b. Một mệnh lệnh bảo tồn riêng chỉ bộ luận này [Tụng 55]

Kệ tụng XI. 55

Kẻ từng an trú với tính như thị sẽ thật chứng tính như thị thâm mật, kinh sợ được giảng nơi đây.

Nhưng các kẻ khác sẽ không thông hiểu, mặc dù họ có tu học

Do vậy, nhận thấy các bộ luận khác do người bình thường soạn thảo đề khởi bản ngã

Bạn hãy không nên vui thích các bộ luận sai lệch với giáo pháp được giảng dạy ở đây.

*

Chân lí thâm mậttối hậu thì được thật chứng chỉ bởi những kẻ sở hữu một lòng mong cầu vững chắcsâu xa đối với nó. Các kẻ khác không thể thật chứng được nó, dù họ có kiến thức sâu rộng do nghiên cứu bản văn. Nó cũng thật là một nguồn sợ hãi cho các kẻ có tâm trí không muốn lắng nghe ý kiến người khác (narrow mind).

Các bộ luận do tâm trí bình thường tưởng tượng viết thành, thì không theo truyền thống trí tuệ của Phật. Thế nên bạn không nên cúi đầu tin tưởng vào các giáo pháp và các vị thầy khẳng định có tự ngã của con người, và thay vào đó bạn nên giữ vững quan điểm đối với bản văn này có nguyên nhân từ ngài Long Thọ.

B. Sự hồi hướng phúc đức do bởi viết bản văn này [Tụng 56]

Kệ tụng XI. 56

Nguyện phúc đức tôi nhận được qua sự giải thích Trung Luận của Đại sư Long Thọ tăng trưởng tất cả các phương tới các biên tế của hư không

Nguyện phúc đức này trong sáng như các ánh sao mùa thu chiếu trên bóng tối chạng vạng của hư vọng của tâm tôi .

Và nhận phúc đức vô lượng lợi ích như thế giống như nhận viên ngọc trên đầu con rắn hổ mang của tâm   

Nguyện cho các hữu tình tất cả thế giới thật chứng tính như thị, tiến nhanh tới các địa của chư Thiện Thệ (chư Phật). 

*

Ở đây ngài Nguyệt Xứng hồi hướng phúc đức hình thành từ bản văn của ngài, và xuyên qua các trích dẫn kinh văn và sử dụng lí luận, ngài giải thích một cách sáng tỏ truyền thống giáo pháp tuyệt vời của ngài Long .  Ngài cầu nguyện rằng nó có thể đi tới mức xa nhất của hư không. Ngài nói, Mong là bầu trời u tối của tâm, bị hành hạ bởi các cảm xúc tiêu cực, trở thành trong sáng giống như các ánh sao mùa thu. Ngài cũng cầu nguyện rằng toàn thể vô lượng vô biên hữu tình có thể thật chứng bản chất thâm mậttối hậu của các hiện tượng, như là họ nhận lấy viên ngọc từ con rắn hổ mang (nói cách khác, tâm này của họ) -- và nhanh chóng đến trạng thái phật.  Ngài Rendawa diễn giải kệ tụng này hàm ý sự hồi hướng các phúc đức toàn diện theo phong cách như thế thì tương tợ như các ngôi sao sáng rực trong bầu trời ban đêm, tâm bị che phủ bởi hư vọng. Và nó như viên ngọc trên đỉnh đầu của con rắn hổ mang, tâm bị bao phủ với tâm niệmhư vọng.    

Nguyện phúc đức tôi nhận được qua sự giải thích Trung Luận của Đại sư Long Thọ tăng trưởng tất cả các phương tới các biên tế của hư không

Nguyện phúc đức này trong sáng như các ánh sao mùa thu chiếu trên bóng tối chạng vạng của hư vọng nơi tâm tôi.

Và nhận phúc đức vô lượng lợi ích như thế giống như nhận viên ngọc trên đầu con rắn hổ mang của tâm   

Nguyện cho các hữu tình tất cả thế giới thật chứng tính như thị, tiến nhanh tới các địa của chư Thiện Thệ (chư Phật). 

II. Kết luận về bộ luận

A. Tác giả của bộ luận

Nhập Trung Đạo giải thích sáng tỏ giáo pháp thâm mật về tính không /chân không diệu hữugiáo pháp vạn hạnh đại bi về các tính đức của đạo lộ và thành quả. Đại sư Nguyệt Xứng viết luận này. Sinh từ miền đất của Phổ Quát, ngài là một vị thầy về tính giác (Vidyadhara) hoàn toàn chăm chú trong chân lí của tối thượng thừa. Ngài không xa cách với trí tuệđại bi, và các đối nghịch không thể tấn công ngài. Ngài thành tựu thiền tịnh chỉ, nhờ đó ngài có thể cung cấp sữa từ tranh vẽ một con bò và do thế xoá bỏ niềm tin cứng cỏi của các hữu tình vào hiện hữu tự tính của các hiện tượng.

B. Dịch giả bản Tạng ngữ

Bản văn này được dịch từ Sanskrit sang Tạng ngữ theo một bản văn Kashmiri bởi Tu viện trưởng Ấn dộ Tilaka Kalasha và dịch giả Tây Tạng tăng sĩ Patsap Nyima Drak, khi cư trú trong Tự viện Viên ngọc ẩn mật (Hidden Jewel Temple) ở trung tâm thành phố “Vượt ngoài sự so sánh” (Anuparna; Beyond Compare)  của xứ Kashsimir, trong thời kì cai trị của vua Shri Aryadeva. Tiếp theo, trong tự viện Rasa Ramoche ( Lhasa), một phiên bản cuối cùng, được tu chính căn cứ vào một bản văn Magadha (bản Ma kiệt đà) bởi tu viện trưởng Ấn độ Kanakavarman và cùng một dịch giả Patsap Nyima Drak.

C. Lời cuối cho bản giải thích -- [Mipham Rinpoche viết]

“Là” và “Không Là”, hai cực đoan, khi chúng được buông bỏ, Trung Đạo hiện ra,

trí tuệ không nhơ nhuốm nhận biết một cách không sai lầm.

Trí tuệ này làm êm dịu các sầu muộn gây nên bởi các tri kiến nhị nguyên.  

Kẻ nói “hiện hữu”, kẻ nói “không hiện hữu”

Trong khi các kẻ khác tuyên bố rằng“Mọi sự vật đều là không gì cả”.

Người ta đi lạc tới bờ này hoặc bờ kia, và mong chờ với sợ hãi như vậy,

Họ giữ một đối tượng khi họ thiền định “một cách phi đối tượng”!

Nhưng khi “Là” và “Không Là” -- các đối tượng được tưởng tượng này -- bị xoá bỏ bởi lí tính của duyên khởi,

Tính xác thực toàn hảo thì đạt được rằng tính không và hiển tướng là đồng thời.

Điều này chỉ được tìm thấy trong truyền thống tuyệt vời của ngài Long Thọ.

Tính thâm mật tuyệt vời này, vua của các tri kiến, được quy kết bởi lí luận,

Có thể làm hoảng sợ các trái tim yếu đuối,

Giờ đây ở đây các giòng suối của trí tuệ của Phật

Tự nhiên tới được các giòng sông của chúng

*

Thế nên tất cả những kẻ khao khát đạo lộ thâm thúy này,

Hãy làm cho chúng thông hiểu, với các phúc duyên có sẵn

Rằng Như thị tính nên được thật chứng.

thông hiểu như vậy, bằng nghiên cứu và chiếu soi,

Chúng sẽ thưởng thức ý nghĩa Như thị tính.

*

Nói chung, bản sơ đồ bản văn chỉ thuần là bản ghi nhận chi tiết,

Nhưng có những điểm diễn tả tinh yếu của bản văn

Bản sơ đồ hiện nay, được khảo sát cẩn thận với tính trí tuệ trong sáng

Sẽ chứng tỏ nó là cao nhất trong tất cả các bản sơ đồ.

*

Kệ tụng quy kết ngắn này được viết trong một một buổi giảng thuyết chi tiết về Nhập Trung Đạo, do Mati [ Jamgon Mipham Rinpoche], một vị thầy  về năm môn khoa học (ngũ minh) và là một thành viên của học viện Dzogchen ở Kham, một nơi mà kinh văn và lí luận vang lên như sư tử hống. Do phúc đức của bản văn, nguyện cho giáo nghĩa về Tinh Yếu Kim Cương của Tính giác Quang Chiếu trải rộng khắp mọi nơi và mọi thời !

Tốt lành

Lời cuối của các nhà biên tập Tây Tạng   

Hệ thống Trung Quán hệ quả là các quy kết tối hậu (ultimate tenet), vì nó  bao hàm ý nghĩa duyên khởitính không, pháp tính tối hậu bất khả tư nghị trong đó không có sự phân chia giữa  hiện tướngtính không. Nhiều kẻ tuyên bố chủ trương tri kiến này nhưng bị  hướng đến lầm lạc bởi vì có  khuynh hướng thói quen mạnh mẽ thấy hai chân lí là dị biệt (to see the two truths as diverging). Thế nên để làm đẹp cái cổ của những kẻ khát vọng tính bình đẳng của tất cả các hiện tượng, ở đây là vòng đeo cổ bằng bảo ngọc mà nó sẽ xoá bỏ sự sa lầy do nắm giữ các lập trường bản thể học cực đoan -- một vòng hoa pha lê trong suốt không tì vết, một bản giải thích đơn giản, hữu hiệu và cao siêu. Nó đã sinh khởi từ đại hải của trí tuệ siêu việt, thâm mậtquảng đại và là một sự lí luận làm an tĩnh tất cả (all-subduing reasoning) mở đầu một hành trình bản lai thanh tịnh của tất cả các hiện tượngcông bố tính không trong tất cả huy hoàng của nó (setting forth the primordial purity of all phenomena and proclaiming emptiness in all its glory). Nó là cờ hiệu của chiến thắng, mà đỉnh cao nhất được trang nghiêm bởi trí tuệ tối hậu của Đức Phật. Nó nên được trao cho những kẻ sẵn sàng nhận các giáo pháp thâm mật. Tuy là tâm trí nhị nguyên, nó sử dụng xác nhận chính xác bởi bằng chứng và sự luận bác để thâm nhập phương diện vượt ngoài nó, nơi mà không có sự vật gì để xác nhận và không có sự vật gì để không thừa nhận, bản chất căn bản của như thị tính là vượt ngoài tất cả các khẳng định. Đây là pháp thân -- sự tịch tĩnh của tất cả các cấu trúc của tưởng, hư không rất ẩn mật của tất cả chư Phật.  Đây là đạo lộ tuyệt vời của các vị thánh, từ bi tạo nên bởi nhiều tính đức tuyệt diệu, có khả năng nhổ hết (khi mà mặt trờimặt trăng vẫn chuyển vận qua bầu trời) các thứ vảy và các cườm làm không thể nhìn , lí luận mà chúng làm cho chúng ta nắm giữ các tướng trạng hiện tượng là thật.  Hướng tới mục đích đó, nguyện cho bản văn thiện hảo này vang lên như diệu âm của một cái trống. Nguyện nó đánh thức tất cả hữu tình thoát khỏi giấc ngủ của vô minh

Trong cách này, kiến lập công trình vô úy của Văn Thù,

Và trong cách này đặt tất cả hữu tình trên Trung Đạo,

An lập Phật thừanhất nhưtối hậu

Nguyện bản giải thích này hoàn thành các ước mong của chư Phật và chư Bồ tát.

Những ghi chú và giải thích này về Nhập Trung Đạo được viết bởi Mipham Rinpoche Jamyang Namgyal, một vị thầy giống như một sư tử của truyền thống Phật giáo, một trí giả về Trung Đạo của Đại Thừa, đã , với sự trợ giúp của Kunzang Pelden (một Tam Tạng pháp sư), kết tập thành một quyển sách bởi Situpa Chokyi Gyamso . Công việc này được hoàn tất theo yêu cầu của Zhechen Dentsap Rinpoche ( Giáo thọ về Giáo nghĩa của Các bản cựu dịch), trong miền đông Tây Tạng, ở Kathog Dorje Den, trong tu viện Norbu’i Lhunpo, nơi các giáo pháp của Phật được giải thích và được tu tập.
Nhờ sự kiện này, nguyện cho tất cả hữu tình có một thực chứng trực tiếp về trí tuệ siêu việt của đấng Tối Thắng.   

--------------------------------------------------------------------

Chú thích của bản dịch Việt

Kệ tụng XI. 54 Chú thích của bản dịch Việt:

Trong Phật tính / Buddha Nature, ngài Di Lặc giảng:

-- Khi mặt trời chiếu sáng rực, các đoá hoa sen và các thứ tương tợ tung cánh nở, nhưng đồng thời các hoa kumuta (một loại hoa súng; water lily) khép cánh một cách hoàn toàn. Mặt trời không biểu lộ bất kì ý nghĩ làm lợi ích hay không làm lợi ích cho sự khai mở hay khép lại của các cánh hoa sinh sống trong nước. Mặt trời của Đức Thế Tôn cũng hành động như thế. (Buddha Nature. The Mahayana Uttaratantra Shastra by Arya Maitreya. Snow Lion Publication, 2000 -  p.67)

Chú thích của bản Việt: Hoa kumuta chỉ nở dưới ánh trăng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 64)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 144)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 167)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 223)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 203)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 188)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 236)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 317)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 559)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 434)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 529)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 718)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 767)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 798)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 801)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 680)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 684)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 793)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 813)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 907)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 676)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 582)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 683)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 804)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 789)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 794)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1043)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 921)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1087)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1087)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1232)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1507)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1941)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1054)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1318)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1062)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 917)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1041)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1078)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1238)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1255)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 991)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1149)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant