Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhập Trung Đạo: Con Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại BiTrí Tuệ (bài 3)

13 Tháng Ba 201615:35(Xem: 7916)
Nhập Trung Đạo: Con Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại Bi Và Trí Tuệ (bài 3)

Nguyệt Xứng (c. 570 - 650) 
NHẬP TRUNG ĐẠO
CON ĐƯỜNG BỒ TÁT TÍCH HỢP ĐẠI BITRÍ TUỆ 
Kết Luận (Bài 3) 

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

Bản Anh: Introduction to the Middle Way. Chandrakirti’s Madhyamakavatara with  Commentary by Jamgon Mipham. Translated by The Padmakara Translation Group (2002). Shambhala, 2004.

Nhập Trung ĐạoCon Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại Bi Và Trí Tuệ

 

Phần 1. Nhập Trung Đạo. Chương XI

Tụng  XI. 52

Con đường tu tập này tôi, tỉ khưu Nguyệt Xứng,
Tập hợp từ các kệ tụng giảng dạy Trung Đạo,
Và tôi viết xuống đây một cách chính xác,
Theo kinh văn và các chỉ giáo.

Tụng XI. 53

Chỉ có các kệ tụng về Trung Đạo đề khởi một hành trình
như giáo nghĩa này đã đề khởi.

Giáo pháp được giảng giải nơi đây cũng không tìm thấynơi khác
Kẻ trí và kẻ có học vấn nên thông hiểu rõ ràng điều này.

Tụng XI. 54

Bị kinh sợ do hiển tướng phản chiếu của đại hải trí tuệ siêu việt của ngài Long Thọ
Một số hữu tình tránh né và đứng xa truyền thống tuyệt vời này
Giờ đây, sự khai hiển những kệ tụng này tương tợ cam lộ đến từ sự khai hiển của hoa kumuta dưới ánh trăng
Trong tính đức này các hi vọng của Nguyệt Xứng đã được thể hiện hoàn hảo.

Kệ tụng XI . 55

Kẻ từng an trú với tính như thị sẽ thật chứng tính như thị thâm mật và kinh sợ được giảng nơi đây.
Nhưng các kẻ khác sẽ không thông hiểu, mặc dù họ có tu học
Do vậy, khi nhận thấy các bộ luận khác do người bình thường soạn thảo đề khởi bản ngã
Bạn hãy buông bỏ các vui thích nơi các bộ luận sai lệch với giáo pháp được giảng dạy ở đây.

Kệ tụng XI. 56

Nguyện phúc đức tôi nhận được qua sự giải thích Trung Luận của Đại sư Long Thọ tăng trưởng tất cả các phương tới các biên tế của hư không
Nguyện phúc đức này trong sáng như các ánh sao mùa thu chiếu trên bóng tối chạng vạng của hư vọng nơi tâm tôi .
Và nhận phúc đức vô lượng lợi ích như thế giống như nhận viên ngọc trên đầu con rắn hổ mang của tâm   
Nguyện cho các hữu tình tất cả thế giới thật chứng tính như thị, tiến nhanh tới các địa của chư Thiện Thệ (chư Phật).  

-----

Phần 2: Bản giải thích Nhập Trung Đạo của Nguyệt Xứng

KẾT  LUẬN

I. Kết luận của phần chính văn của bộ luận Nhập Trung Đạo

A.  Bản văn được viết như thế nào

1 Cấu trúc của bản văn

a. Bản văn đặt căn bản trên gì [Tụng 52]

b. Bộ luận, được viết theo phong cách này, tuyệt vời phi thường [Tụng 53]

2. Tại sao bản văn này được viết

a. Mục đích của nó [Tụng 54]

b. Một mệnh lệnh bảo tồn riêng chỉ bộ luận này [Tụng 55]

B. Sự hồi hướng phúc đức do bởi viết bản văn này [Tụng 56]

II. Kết luận về bộ luận

A. Tác giả của bộ luận

B. Dịch giả bản Tạng ngữ

C. Lời cuối cho bản giải thích -- [Mipham Rinpoche viết]

Lời cuối của các nhà biên tập Tây Tạng  

------------------------

Bản giải thích Nhập Trung Đạo của Nguyệt Xứng

KẾT  LUẬN

I. Kết luận của phần chính văn của bộ luận Nhập Trung Đạo

A. Bản văn được viết như thế nào

1. Cấu trúc của bản văn

a. Bản văn đặt căn bản trên gì [Tụng 52]

Tụng  XI. 52

Con đường tu tập này tôi, tỉ khưu Nguyệt Xứng,

Tập hợp từ các kệ tụng giảng dạy Trung Đạo,

Và tôi viết xuống đây một cách chính xác

Theo kinh văn và các chỉ giáo.

*

Bộ luận này, giải thích một cách không sai lạc tri kiến của ngài Long Thọ, được tích hợp từ Trung Luận, Các kệ tụng căn bản về Trung Đạo và các bộ luận Trung Quán khác. Tác phẩm được viết bởi Tỉ khưu Nguyệt Xứng (570-650), ngài viết nó hòa hợp với các bản kinhý nghĩa tối hậu (Kinh liễu nghĩa), cùng với các chỉ giáo tinh yếu thực tế của ngài Long Thọ.

b. Bộ luận, được viết theo phong cách này, tuyệt vời phi thường [Tụng53]

Tụng XI. 53

Chỉ có các kệ tụng về Trung Đạo đề khởi một hành trình

như giáo nghĩa này đã đề khởi.

Giáo pháp được giảng giải nơi đây cũng không tìm thấynơi khác.

Kẻ trí và kẻ có học vấn nên hiểu rõ điều này.

*

Các kẻ hữu học có thể biết chắc chắn rằng ngoài Các tụng căn bản về Trung đạo (Trung luận), giáo pháp đầy đủ và không sai lầm về tính không / chân không diệu hữu thì không được tìm thấy trong các bộ luận khác . Hơn thế nữa, bản văn này từ các tiếp cận khởi đầu không có các đề khởi sự hiện hữu của các hiện tượng “theo tự tính của chúng” trên phương diện tương đối (phương diện thế tục), và sự không đề khởi này cũng không tìm thấy trong các bộ luận khác. Hệ quả là điều này chỉ xuất hiện trong các bản văn Trung quán.

(Furthermore, the approach set forth in the present text, wherein no assertion is made as to the existence of phenomena” according to their own characteristics” on the relative level, is not to be found in other treatises, which consequently have only the appearance of Madhyamika texts)

2. Tại sao bản văn này được viết

a. Mục đích của nó [Tụng54]

Tụng XI. 54

Bị kinh sợ do hiển tướng phản chiếu của đại hải trí tuệ siêu việt của ngài Long Thọ

Một số hữu tình tránh né và đứng xa truyền thống tuyệt vời này

Giờ đây, sự khai hiển những kệ tụng này tương tợ cam lộ từ sự khai hiển nụ hoa kumuta dưới ánh trăng

Trong tính đức này các hi vọng của Nguyệt Xứng đã được thể hiện hoàn hảo.

*

Lo sợ bởi các từ ngữ như “vô sinh”, “tính không” (unborn, emptiness), và v.v…, chúng thì tương tợ màu sắc tối thẫm của vùng nước mênh mông sâu thẳm của trí tuệ của ngài Long Thọ một số người trong quá khứ [các nhà Duy Thức], giống như đám trẻ đang sợ hãi, đã bác bỏ truyền thống tuyệt hảo của ngài và trốn chạy nó. Nhưng giờ đây Các tụng căn bản về Trung Đạo như các nụ hoa kumuta (tương tợ hoa súng /water lily) được thấm nhuận cam lộ của bộ luận Nhập Trung Đạo, đã bừng nở thành những đoá hoa . Như vậy những mong ước của ngài Nguyệt Xứng đều được thực hiện.

Cũng như các trẻ em sợ biển và tránh xa nó, Thế Thân, Trần Na, Hộ Pháp, và các vị khác, sợ hãi ý niệm “vô sinh” (“unborn”),  tính không,  trong các tác phẩm của Long Thọ, và né tránh chúng [Các ngài thật chứng tính không theo phương pháp khác. Chú thích của bản Việt]. Tuy thế, cũng như trong một cái hồ, các hoa kumuta mĩ lệ nở trong ánh sáng trắng trăng tròn, Nguyệt Xứng đã làm cho các nụ hoa kumuta của các bộ luận của ngài Long Thọ nở hoa cho nên giờ đây vùng nước đầy hoa kumuta của hồ nước trí tuệ của ngài Long Thọ có thể làm thoả mãn các hi vọng và các nguyện vọng của các hữu tình.   

Trước đây [khi Nhập Trung Đạo của Nguyệt Xứng chưa xuất hiện], một số người đã xa cách với đại hải trí tuệ của ngài Long Thọ và do thế không thể thọ hưởng được nguồn nước của nó. Nhưng giờ đây, xuyên qua phúc duyên của họ, họ có thể hưởng dụng thành tựu của đại hải nguyện vọng.

Rendawa [Thầy của Tsongkhapa] diễn giải kệ tụng này hàm ý bộ luận của Nguyệt Xứng khai mở chân lí diệu nghĩa thâm mật như là chúng là những nụ hoa kumuta; và chính là do được thấm nhuận với giọt sương tương tợ cam lồ của các chỉ giáo mà Nguyệt Xứng hoàn thành các mong ước của các hữu tình. Các kệ tụng căn bản về Trung Đạo đã sinh khởi từ đại hải trí tuệ của ngài Long Thọ như những nụ hoa kumuta, và những nụ hoa này nay đã nở trong ánh sáng trí tuệ của ngài Nguyệt Xứng. Cam lộ của hai chân lí có trong bộ luận, vốn có tám tính đức [không diệt / sinh / đoạn/ thường / đến / đi / đồng nhất/ dị biệt. ĐHP], đã cung cấp đầy đủ các hi vọng và các mong muốn của tất cả các hữu tình chiếu theo các mong muốn của họ.

b. Một mệnh lệnh bảo tồn riêng chỉ bộ luận này [Tụng 55]

Kệ tụng XI. 55

Kẻ từng an trú với tính như thị sẽ thật chứng tính như thị thâm mật, kinh sợ được giảng nơi đây.

Nhưng các kẻ khác sẽ không thông hiểu, mặc dù họ có tu học

Do vậy, nhận thấy các bộ luận khác do người bình thường soạn thảo đề khởi bản ngã

Bạn hãy không nên vui thích các bộ luận sai lệch với giáo pháp được giảng dạy ở đây.

*

Chân lí thâm mậttối hậu thì được thật chứng chỉ bởi những kẻ sở hữu một lòng mong cầu vững chắcsâu xa đối với nó. Các kẻ khác không thể thật chứng được nó, dù họ có kiến thức sâu rộng do nghiên cứu bản văn. Nó cũng thật là một nguồn sợ hãi cho các kẻ có tâm trí không muốn lắng nghe ý kiến người khác (narrow mind).

Các bộ luận do tâm trí bình thường tưởng tượng viết thành, thì không theo truyền thống trí tuệ của Phật. Thế nên bạn không nên cúi đầu tin tưởng vào các giáo pháp và các vị thầy khẳng định có tự ngã của con người, và thay vào đó bạn nên giữ vững quan điểm đối với bản văn này có nguyên nhân từ ngài Long Thọ.

B. Sự hồi hướng phúc đức do bởi viết bản văn này [Tụng 56]

Kệ tụng XI. 56

Nguyện phúc đức tôi nhận được qua sự giải thích Trung Luận của Đại sư Long Thọ tăng trưởng tất cả các phương tới các biên tế của hư không

Nguyện phúc đức này trong sáng như các ánh sao mùa thu chiếu trên bóng tối chạng vạng của hư vọng của tâm tôi .

Và nhận phúc đức vô lượng lợi ích như thế giống như nhận viên ngọc trên đầu con rắn hổ mang của tâm   

Nguyện cho các hữu tình tất cả thế giới thật chứng tính như thị, tiến nhanh tới các địa của chư Thiện Thệ (chư Phật). 

*

Ở đây ngài Nguyệt Xứng hồi hướng phúc đức hình thành từ bản văn của ngài, và xuyên qua các trích dẫn kinh văn và sử dụng lí luận, ngài giải thích một cách sáng tỏ truyền thống giáo pháp tuyệt vời của ngài Long .  Ngài cầu nguyện rằng nó có thể đi tới mức xa nhất của hư không. Ngài nói, Mong là bầu trời u tối của tâm, bị hành hạ bởi các cảm xúc tiêu cực, trở thành trong sáng giống như các ánh sao mùa thu. Ngài cũng cầu nguyện rằng toàn thể vô lượng vô biên hữu tình có thể thật chứng bản chất thâm mậttối hậu của các hiện tượng, như là họ nhận lấy viên ngọc từ con rắn hổ mang (nói cách khác, tâm này của họ) -- và nhanh chóng đến trạng thái phật.  Ngài Rendawa diễn giải kệ tụng này hàm ý sự hồi hướng các phúc đức toàn diện theo phong cách như thế thì tương tợ như các ngôi sao sáng rực trong bầu trời ban đêm, tâm bị che phủ bởi hư vọng. Và nó như viên ngọc trên đỉnh đầu của con rắn hổ mang, tâm bị bao phủ với tâm niệmhư vọng.    

Nguyện phúc đức tôi nhận được qua sự giải thích Trung Luận của Đại sư Long Thọ tăng trưởng tất cả các phương tới các biên tế của hư không

Nguyện phúc đức này trong sáng như các ánh sao mùa thu chiếu trên bóng tối chạng vạng của hư vọng nơi tâm tôi.

Và nhận phúc đức vô lượng lợi ích như thế giống như nhận viên ngọc trên đầu con rắn hổ mang của tâm   

Nguyện cho các hữu tình tất cả thế giới thật chứng tính như thị, tiến nhanh tới các địa của chư Thiện Thệ (chư Phật). 

II. Kết luận về bộ luận

A. Tác giả của bộ luận

Nhập Trung Đạo giải thích sáng tỏ giáo pháp thâm mật về tính không /chân không diệu hữugiáo pháp vạn hạnh đại bi về các tính đức của đạo lộ và thành quả. Đại sư Nguyệt Xứng viết luận này. Sinh từ miền đất của Phổ Quát, ngài là một vị thầy về tính giác (Vidyadhara) hoàn toàn chăm chú trong chân lí của tối thượng thừa. Ngài không xa cách với trí tuệđại bi, và các đối nghịch không thể tấn công ngài. Ngài thành tựu thiền tịnh chỉ, nhờ đó ngài có thể cung cấp sữa từ tranh vẽ một con bò và do thế xoá bỏ niềm tin cứng cỏi của các hữu tình vào hiện hữu tự tính của các hiện tượng.

B. Dịch giả bản Tạng ngữ

Bản văn này được dịch từ Sanskrit sang Tạng ngữ theo một bản văn Kashmiri bởi Tu viện trưởng Ấn dộ Tilaka Kalasha và dịch giả Tây Tạng tăng sĩ Patsap Nyima Drak, khi cư trú trong Tự viện Viên ngọc ẩn mật (Hidden Jewel Temple) ở trung tâm thành phố “Vượt ngoài sự so sánh” (Anuparna; Beyond Compare)  của xứ Kashsimir, trong thời kì cai trị của vua Shri Aryadeva. Tiếp theo, trong tự viện Rasa Ramoche ( Lhasa), một phiên bản cuối cùng, được tu chính căn cứ vào một bản văn Magadha (bản Ma kiệt đà) bởi tu viện trưởng Ấn độ Kanakavarman và cùng một dịch giả Patsap Nyima Drak.

C. Lời cuối cho bản giải thích -- [Mipham Rinpoche viết]

“Là” và “Không Là”, hai cực đoan, khi chúng được buông bỏ, Trung Đạo hiện ra,

trí tuệ không nhơ nhuốm nhận biết một cách không sai lầm.

Trí tuệ này làm êm dịu các sầu muộn gây nên bởi các tri kiến nhị nguyên.  

Kẻ nói “hiện hữu”, kẻ nói “không hiện hữu”

Trong khi các kẻ khác tuyên bố rằng“Mọi sự vật đều là không gì cả”.

Người ta đi lạc tới bờ này hoặc bờ kia, và mong chờ với sợ hãi như vậy,

Họ giữ một đối tượng khi họ thiền định “một cách phi đối tượng”!

Nhưng khi “Là” và “Không Là” -- các đối tượng được tưởng tượng này -- bị xoá bỏ bởi lí tính của duyên khởi,

Tính xác thực toàn hảo thì đạt được rằng tính không và hiển tướng là đồng thời.

Điều này chỉ được tìm thấy trong truyền thống tuyệt vời của ngài Long Thọ.

Tính thâm mật tuyệt vời này, vua của các tri kiến, được quy kết bởi lí luận,

Có thể làm hoảng sợ các trái tim yếu đuối,

Giờ đây ở đây các giòng suối của trí tuệ của Phật

Tự nhiên tới được các giòng sông của chúng

*

Thế nên tất cả những kẻ khao khát đạo lộ thâm thúy này,

Hãy làm cho chúng thông hiểu, với các phúc duyên có sẵn

Rằng Như thị tính nên được thật chứng.

thông hiểu như vậy, bằng nghiên cứu và chiếu soi,

Chúng sẽ thưởng thức ý nghĩa Như thị tính.

*

Nói chung, bản sơ đồ bản văn chỉ thuần là bản ghi nhận chi tiết,

Nhưng có những điểm diễn tả tinh yếu của bản văn

Bản sơ đồ hiện nay, được khảo sát cẩn thận với tính trí tuệ trong sáng

Sẽ chứng tỏ nó là cao nhất trong tất cả các bản sơ đồ.

*

Kệ tụng quy kết ngắn này được viết trong một một buổi giảng thuyết chi tiết về Nhập Trung Đạo, do Mati [ Jamgon Mipham Rinpoche], một vị thầy  về năm môn khoa học (ngũ minh) và là một thành viên của học viện Dzogchen ở Kham, một nơi mà kinh văn và lí luận vang lên như sư tử hống. Do phúc đức của bản văn, nguyện cho giáo nghĩa về Tinh Yếu Kim Cương của Tính giác Quang Chiếu trải rộng khắp mọi nơi và mọi thời !

Tốt lành

Lời cuối của các nhà biên tập Tây Tạng   

Hệ thống Trung Quán hệ quả là các quy kết tối hậu (ultimate tenet), vì nó  bao hàm ý nghĩa duyên khởitính không, pháp tính tối hậu bất khả tư nghị trong đó không có sự phân chia giữa  hiện tướngtính không. Nhiều kẻ tuyên bố chủ trương tri kiến này nhưng bị  hướng đến lầm lạc bởi vì có  khuynh hướng thói quen mạnh mẽ thấy hai chân lí là dị biệt (to see the two truths as diverging). Thế nên để làm đẹp cái cổ của những kẻ khát vọng tính bình đẳng của tất cả các hiện tượng, ở đây là vòng đeo cổ bằng bảo ngọc mà nó sẽ xoá bỏ sự sa lầy do nắm giữ các lập trường bản thể học cực đoan -- một vòng hoa pha lê trong suốt không tì vết, một bản giải thích đơn giản, hữu hiệu và cao siêu. Nó đã sinh khởi từ đại hải của trí tuệ siêu việt, thâm mậtquảng đại và là một sự lí luận làm an tĩnh tất cả (all-subduing reasoning) mở đầu một hành trình bản lai thanh tịnh của tất cả các hiện tượngcông bố tính không trong tất cả huy hoàng của nó (setting forth the primordial purity of all phenomena and proclaiming emptiness in all its glory). Nó là cờ hiệu của chiến thắng, mà đỉnh cao nhất được trang nghiêm bởi trí tuệ tối hậu của Đức Phật. Nó nên được trao cho những kẻ sẵn sàng nhận các giáo pháp thâm mật. Tuy là tâm trí nhị nguyên, nó sử dụng xác nhận chính xác bởi bằng chứng và sự luận bác để thâm nhập phương diện vượt ngoài nó, nơi mà không có sự vật gì để xác nhận và không có sự vật gì để không thừa nhận, bản chất căn bản của như thị tính là vượt ngoài tất cả các khẳng định. Đây là pháp thân -- sự tịch tĩnh của tất cả các cấu trúc của tưởng, hư không rất ẩn mật của tất cả chư Phật.  Đây là đạo lộ tuyệt vời của các vị thánh, từ bi tạo nên bởi nhiều tính đức tuyệt diệu, có khả năng nhổ hết (khi mà mặt trờimặt trăng vẫn chuyển vận qua bầu trời) các thứ vảy và các cườm làm không thể nhìn , lí luận mà chúng làm cho chúng ta nắm giữ các tướng trạng hiện tượng là thật.  Hướng tới mục đích đó, nguyện cho bản văn thiện hảo này vang lên như diệu âm của một cái trống. Nguyện nó đánh thức tất cả hữu tình thoát khỏi giấc ngủ của vô minh

Trong cách này, kiến lập công trình vô úy của Văn Thù,

Và trong cách này đặt tất cả hữu tình trên Trung Đạo,

An lập Phật thừanhất nhưtối hậu

Nguyện bản giải thích này hoàn thành các ước mong của chư Phật và chư Bồ tát.

Những ghi chú và giải thích này về Nhập Trung Đạo được viết bởi Mipham Rinpoche Jamyang Namgyal, một vị thầy giống như một sư tử của truyền thống Phật giáo, một trí giả về Trung Đạo của Đại Thừa, đã , với sự trợ giúp của Kunzang Pelden (một Tam Tạng pháp sư), kết tập thành một quyển sách bởi Situpa Chokyi Gyamso . Công việc này được hoàn tất theo yêu cầu của Zhechen Dentsap Rinpoche ( Giáo thọ về Giáo nghĩa của Các bản cựu dịch), trong miền đông Tây Tạng, ở Kathog Dorje Den, trong tu viện Norbu’i Lhunpo, nơi các giáo pháp của Phật được giải thích và được tu tập.
Nhờ sự kiện này, nguyện cho tất cả hữu tình có một thực chứng trực tiếp về trí tuệ siêu việt của đấng Tối Thắng.   

--------------------------------------------------------------------

Chú thích của bản dịch Việt

Kệ tụng XI. 54 Chú thích của bản dịch Việt:

Trong Phật tính / Buddha Nature, ngài Di Lặc giảng:

-- Khi mặt trời chiếu sáng rực, các đoá hoa sen và các thứ tương tợ tung cánh nở, nhưng đồng thời các hoa kumuta (một loại hoa súng; water lily) khép cánh một cách hoàn toàn. Mặt trời không biểu lộ bất kì ý nghĩ làm lợi ích hay không làm lợi ích cho sự khai mở hay khép lại của các cánh hoa sinh sống trong nước. Mặt trời của Đức Thế Tôn cũng hành động như thế. (Buddha Nature. The Mahayana Uttaratantra Shastra by Arya Maitreya. Snow Lion Publication, 2000 -  p.67)

Chú thích của bản Việt: Hoa kumuta chỉ nở dưới ánh trăng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4026)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5211)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2677)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6156)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3070)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3119)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3325)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3253)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3310)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4578)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2743)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5237)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3891)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3855)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3220)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4159)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5074)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3534)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6768)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3980)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3232)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3112)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2975)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5887)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4648)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3508)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2911)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3322)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4443)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5739)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6655)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3740)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4546)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4625)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3989)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3415)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4653)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6078)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5856)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3652)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4704)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4471)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4547)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4281)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4613)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8237)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3936)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5735)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5224)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6875)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6198)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6008)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5823)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6314)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6805)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4991)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5583)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6408)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3802)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5440)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant