Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật tỏa sáng, suốt ngày đêm, câu chuyện về tôn giả A Nan

04 Tháng Năm 201608:21(Xem: 8447)
Đức Phật tỏa sáng, suốt ngày đêm, câu chuyện về tôn giả A Nan

Đức Phật Tỏa Sáng, Suốt Ngày Đêm -
Câu Chuyện Về Tôn Giả A-Nan,
Kệ 387 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú Minh Họa

Weragoda Sarada Maha Thero
Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến
Hình Vẽ: P. Wickramanayaka  - Source-Nguồn: www.buddhanet.net

Đức Phật tỏa sáng, suốt ngày đêm, câu chuyện về tôn giả A Nan

(The Buddha Shines Day And Night - The Story Of Venerable Ānanda, Verse 387 - Treasury Of Truth,
Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)


BÀI KỆ 387:

387. Divā tapati ādicco
rattiṃ ābhāti candimā
sannaddho khattiyo tapati
jhāyī tapati brāhmaṇo
atha sabbaṃ ahorattiṃ
Buddho tapati tejasā. (26:5)

Mặt trời tỏa sáng, lúc ban ngày,
mặt trăng tỏa sáng, lúc ban đêm,
người chiến-sĩ tỏa sáng, lúc mặc áo giáp,
vị A La Hán (Bà La Môn) tỏa sáng, lúc thiền định.
Tuy nhiên, Đức Phật tỏa sáng rực rỡ, suốt ngày đêm.

Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về Tôn Giả A-Nan.

Câu chuyện được kể rằng trong buổi Lễ Kết Thúc Trọng Đại, vua Ba Tư Nặc (Pasenadi Kosala) đi đến tu viện trong trang phục vàng bạcchâu báu, xức nước hoa, đeo vòng hoa trên cổ và trên tay. Vào lúc đó, Đại Đức Kāludāyi đang ngồi thiền phía bên ngoài của nơi chư tăng nhóm họp, và ông đang ở trạng thái đại thiền định. Thân thể của Đại Đức lúc nầy được trông thấy tỏa sáng ánh vàng. Ngay lúc bấy giờ, có mặt trời lặn, và mặt trăng mọc. Tôn Giả A-Nan nhìn sự rạng rỡ của mặt trời khi lặn, và sự rạng rỡ của mặt trăng khi mọc; rồi Tôn Giả nhìn sự rạng rỡ từ thân thể của nhà vua, và sự rạng rỡ từ thân thể của Đại Đức, rồi Tôn Giả nhìn sự rạng rỡ từ thân thể của Đức Như Lai. Đức Phật đã tỏa sáng rực rỡ hơn tất cả mọi người và vật khác. 

Tôn Giả đảnh lễ Đức Phật, rồi nói rằng, "Bạch Thế Tôn, hôm nay con chú tâm nhìn sự rạng rỡ từ các thân thể, và sự rạng rỡ từ thân thể ngài làm cho con cảm thấy phấn khởi nhất; bởi vì, thân thể ngài tỏa sáng rực rỡ hơn tất cả các thân thể khác." Đức Phật liền nói với Tôn Giả, "Nầy A-Nan, mặt trời tỏa sáng lúc ban ngày, mặt trăng tỏa sáng lúc ban đêm, vua chúa tỏa sáng khi mặc trang phục vàng bạcchâu báu, sau khi ngồi thiền một mình, vị A La Hán tỏa sáng lúc ở trạng thái đại thiền định. Tuy nhiên, các vị Phật tỏa sáng, suốt cả ngày và đêm, với cường độ cao hơn gấp năm-lần."

BÀI KỆ 387, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:

ādicco divā tapati candimā rattiṃ obhāti khattiyo
annaddho tapati brāhmaṇo jhāyī tapati atha
sabbaṃ ahorattiṃ Buddho tejasā tapati

ādicco: mặt trời; diva: lúc ban ngày; tapati: tỏa sáng; candimā: mặt trăng; rattiṃ: vào ban đêm; obhāti: tỏa sáng; khattiyo: người chiến sĩ; sannaddho: mặc áo giáp của ông ta; tapati: tỏa sáng; brāhmaṇo: người tu hành Bà La Môn; jhāyī: trong khi thiền; tapati: tỏa sáng; atha: nhưng; sabbaṃ: khắp nơi; ahorattiṃ: ngày và đêm; Buddho: Đức Phật; tejasā: trong ánh hào quang; tapati: tỏa sáng

Mặt trời tỏa sáng lúc ban ngày. Mặt trăng tỏa sáng lúc ban đêm. Người chiến-sĩ tỏa sáng lúc mặc áo giáp. Vị A La Hán (Bà La Môn) tỏa sáng, lúc tập trung vào thiền định. Tất cả mọi người, và vật nói trên, tùy lúc tỏa sáng. Tuy nhiên, Đức Phật tỏa sáng rực rỡ suốt ngày đêm, bởi vì ngài là bậc Giác Ngộ.

Bài kệ 387 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:

(387) Mặt trời chiếu sáng ban ngày. Mặt trăng đêm xuống tỏa đầy ánh quang. Gươm đao, nhung giáp huy hoàng. Trận tiền chiếu sáng rỡ ràng cho Vua. Bà La Môn vốn từ xưa. Hào quang chiếu sáng khi tu hành thiền, Nhưng hào quang Phật vô biên. Ngày đêm chiếu sáng khắp miền nhân gian.

BÌNH LUẬN

jhāyī: thiền; như là một người ngồi thiền; như một người thực hành thiền, jhāna (sự tập trung). Tầng thiền (jhāna) là một trạng thái tinh thần vượt ra ngoài tầm hoạt động của năm giác quan. Tầng thiền nầy chỉ có thể đạt được ở nơi yên tĩnh, vắng lặng, và người hành thiền kiên trì thực hành sự tập trung, không ngừng nghỉ.

Tách ra khỏi các đối tượng gợi cảm, và tách ra khỏi những điều xấu xa, người đệ-tử đi vào tầng thiền thứ nhất, với các ý nghĩ - quan niệm (hướng tâm đến đối tượng, vitakka) và suy nghĩ lan man (tiếp tục giữ tâm trên đối tượng, vicāra) - được phát sinh từ sự tách biệt, rồi người nầy cảm thấy hoàn toàn vui vẻhạnh phúc.

Đây là tầng thiền thứ nhất thuộc lãnh vực vật-chất tinh-tế (rūpāvacarajjhāna). Đạt được tầng thiền nầy là nhờ sức mạnh của sự tập trung, sự tạm đình-chỉ các hoạt động của năm giác quan, và năm chướng-ngại hầu như đã được loại bỏ.

Ở tầng thiền thứ nhất, có năm yếu tố đã được loại bỏ, và có năm yếu tố còn có mặt. Khi người đệ-tử nhập vào tầng thiền thứ nhất, ông đã loại bỏ được năm chướng ngại (triền cái, hindrances): lòng tham dục, ý xấu (sân hận), hôn mê và lười biếng (hôn trầm), sự bồn chồn và sự lo lắng về tinh thần (trạo cử), và sự nghi ngờ; và có năm yếu tố hãy còn có mặt: quan niệm (hướng tâm đến đối tượng, vitakka), suy nghĩ lan man (tiếp tục giữ tâm trên đối tượng, vicāra), sự vui vẻ (pīti), niềm hạnh phúc (sukha), và sự tập trung (citt'ekaggatā - samādhi).

Năm yếu tố tinh thần còn có mặt trong tầng thiền đầu tiên được gọi là yếu tố (hoặc là thành phần) của tầng thiền (jhānañga). Vitakka (hình thành ban đầu của một ý nghĩ trừu tượng) và vicāra (suy nghĩ lan man, sự suy ngẫm) được gọi là chức năng qua lời nói (vācā-sankhāra) của tâm; vì thế, cả hai yếu tố nầy là yếu tố phụ thuộc của cái-biết. Trong Thanh Tịnh Đạo (visuddhi-magga), vitakkha được so sánh với người-giữ-bình, và vicāra với người-lau-bình. Trong tầng thiền đầu tiên, cả hai yếu tố nầy có mặt ở một mức độ yếu kém, tuy nhiên, cả hai yếu tố nầy hoàn toàn vắng mặt ở các tầng thiền kế tiếp.

Tiếp theo đó, sau khi mức độ của cả hai yếu tố nói trên từ từ giảm xuống, và khi người đệ-tử làm tăng mức độ của sự an tĩnh trong tâm, và sự hiệp nhất của tâm, ông ta đi vào tầng thiền thứ nhì (không còn có hai yếu tố nói trên), và làm phát-sinh thêm sự tập trung (thiền định, samādhi), nên ông cảm thấy hoàn toàn vui vẻ (pīti), và hạnh phúc (sukha). 

Trong tầng thiền thứ nhì, có ba yếu tố: vui vẻ, hạnh phúc, và sự tập trung.

Tiếp theo đó, sau khi yếu tố vui vẻ từ từ ít đi, người đệ-tử sống trong bình an, chú-tâm đúng-đắn, và có sự nhận biết rõ ràng; rồi ông cảm nghiệm trong tâm ông, cảm giác mà các bậc cao-quý đã nói rằng: Người mà kiểm-soát được tâm và chú-tâm đúng-đắn là người hạnh phúc - và như thế, ông đi vào tầng thiền thứ ba.

Trong tầng thiền thứ ba có hai yếu tố: sự buông xả-là hạnh phúc (upekkhā-sukha) và sự tập trung (citt'ekaggatā).

Tiếp theo đó, sau khi từ bỏ được niềm vui thích và sự đau đớn, và khi niềm vui và đau buồn trước-đó biến-mất, ông bước vào một trạng-thái vượt-qua khỏi niềm vui thích và sự đau đớn, rồi ông đi vào tầng thiền thứ tư, tầng thiền trong-sạch nhờ có sự buông-xả nên bình-an, và nhờ có sự chú tâm đúng đắn.

Trong tầng thiền thứ tư có hai yếu tố: sự tập trung và sự buông-xả nên bình-an (upekkhā).

Trong Thanh Tịnh Đạo (visuddhi-magga) có bốn mươi chủ đề về thiền (kammaṭṭhāna) được liệt kê, và được phân tích chi tiết.

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

 

SHORT TITLE:

The Story Of Venerable Ānanda, Verse 387, Treasury Of Truth

FULL TITLE:

The Buddha Shines Day And Night - The Story Of Venerable Ānanda, Verse 387 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net

VERSE 387:

387. Divā tapati ādicco
rattiṃ ābhāti candimā
sannaddho khattiyo tapati
jhāyī tapati brāhmaṇo
atha sabbaṃ ahorattiṃ
Buddho tapati tejasā. (26:5)

The sun is bright by day,
the moon enlights the night,
armoured shines the warrior,
contemplative the Brahmin True.
But all the day and night-time too
resplendent does the Buddha shine.

While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse with reference to Venerable Ānanda.

The story goes that on the Great Terminal Festival, Pasenadi Kosala went to the monastery adorned with all the adornments, bearing perfumes, garlands and the like in his hands. At that moment Venerable Kāludāyi was sitting in the outer circle of the congregation, having entered into a state of trance. His body was pleasing to look upon, for it was of a golden hue. Now just at that moment the moon rose and the sun set. Venerable Ānanda looked at the radiance of the sun as the sun set, and of the moon as the moon rose; then he looked at the radiance of the body of the king and at the radiance of the body of the Venerable and at the radiance of the body of the Tathāgata. The Buddha far outshone the radiance of all the others.

The Venerable saluted the Buddha and said, “Venerable, as today I gazed upon the radiance of all these bodies, the radiance of your body alone satisfied me; for your body far outshone the radiance of all these other bodies.” Said the Buddha to the Venerable, “Ānanda, the sun shines by day, the moon by night, the king when he is adorned, the arahat when he has left human associations behind and is absorbed in trance. But the Buddhas shine both by night and by day, and shine with five-fold brightness.”

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 387)

ādicco divā tapati candimā rattiṃ obhāti khattiyo
annaddho tapati brāhmaṇo jhāyī tapati atha
sabbaṃ ahorattiṃ Buddho tejasā tapati

ādicco: the sun; divā: during day; tapati: shines; candimā: the moon; rattiṃ: at night; obhāti: shines; khattiyo: the warrior; sannaddho: dressed in his armour; tapati: gleams; brāhmaṇo: the brāhmaṇa; jhāyī: in meditation; tapati: shines; atha: but; sabbaṃ: throughout; ahorattiṃ: day and night; Buddho: the Buddha; tejasā: in his glory; tapati: shines

The sun shines during daytime. The moon beams at night. The warrior glows only when he has his armour on. The brāhmaṇa shines when he is concentrated on contemplation. All these people have various times to shine. But the Buddha glows all day and all night through his Enlightenment.

COMMENTARY

jhāyī: meditating; as one meditates; as an individual practises jhāna (concentration). The absorption in jhāna is a mental state beyond the reach of the five-fold sense-activity. This state can be achieved only in solitude and by unremitting perseverance in the practice of concentration.

Detached from sensual objects, detached from evil things, the disciple enters into the first absorption, which is accompanied by thought - conception and discursive thinking, is born of detachment, and filled with rapture and happiness.

This is the first of the absorptions belonging to the fine-material sphere (rūpāvacarajjhāna). It is attained when, through the strength of concentration, the five-fold sense-activity is temporarily suspended, and the five hindrances are likewise eliminated.

The first absorption is free from five things, and five things are present. When the disciple enters the first absorption, there have vanished the five hindrances: lust, ill-will, torpor and sloth, restlessness and mental worry, doubts; and there are present: thought-conception (vitakka), discursive-thinking (vicāra), rapture (pīti), happiness (sukha), and concentration (citt’ekaggatā – samādhi).

These five mental factors present in the first absorption are called factors (or constituents) of absorption (jhānañga). Vitakka (initial formation of an abstract thought) and vicāra (discursive thinking, rumination) are called verbal functions (vācā-sankhāra) of the mind; hence they are something secondary compared with consciousness. In visuddhi-magga, vitakka is compared with the taking hold of a pot, and vicāra with the wiping of it. In the first absorption both of them are present only in a weak degree, and are entirely absent in the following Absorptions.

And further, after the subsiding of thought-conception and discursive thinking, and by the gaining of inner tranquillity and oneness of mind, he enters into a state free from thought-conception and discursive thinking, the second absorption, which is born of concentration (samādhi) and filled with rapture (pīti) and happiness (sukha).

In the second absorption, there are three factors of absorption: happiness and concentration.

And further, after the fading away of rapture, he dwells in equanimity, mindful, with clear awareness; and he experiences in his own person that feeling of which the noble ones say: Happy lives he who is equanimous and mindful – thus he enters the third absorption.

In the third absorption there are two factors of absorption: equanimous happiness (upekkhā-sukha) and concentration (citt’ekaggatā).

And further, after the giving up of pleasure and pain, and through the disappearance of previous joy and grief, he enters into a state beyond pleasure and pain, into the fourth absorption, which is purified by equanimity and mindfulness.

In the fourth absorption there are two factors of absorption: concentration and equanimity (upekkhā).

In visuddhi-magga forty subjects of meditation (kammaṭṭhāna) are enumerated and treated in detail.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23115)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8106)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20520)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19533)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18406)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16268)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15948)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19056)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14312)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9628)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8720)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8213)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8916)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 10979)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9147)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8882)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 7955)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9096)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35635)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8560)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15096)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8707)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15297)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9183)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8847)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9360)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8458)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10303)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7664)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9543)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7519)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17232)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15022)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9511)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20906)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9218)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7180)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17723)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17639)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25828)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7836)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9929)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7274)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9656)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8148)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9114)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7422)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8792)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7938)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8364)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7548)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8738)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8170)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8900)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7301)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 14010)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7112)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
(Xem: 10368)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
(Xem: 7700)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
(Xem: 8514)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant