Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vượt Qua Mọi Sự Đau Khổ (song Ngữ)

08 Tháng Năm 201611:05(Xem: 7214)
Vượt Qua Mọi Sự Đau Khổ (song Ngữ)

VƯỢT QUA MỌI SỰ ĐAU KHỔ
Câu Chuyện Về Các Câu Hỏi Của Vua Trời Đế Thích,
Kệ 354 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú

Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero
Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka  
Source-Nguồn: www.buddhanet.net

(The Conquests Of All Suffering - The Story Of The Questions Raised By Sakka, Verse 354- Treasury Of Truth,
Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)

Vượt Qua Mọi Sự Đau Khổ (song Ngữ)


BÀI KỆ 354:

354. Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti
sabbaṃrasaṃ dhammaraso jināti
sabbaṃratiṃ dhammaratī jināti
taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ jināti. (24:21)

354. Món quà tặng về Phật Pháp, cao quý hơn tất cả những món quà tặng khác, Hương vị Phật Pháp, thơm ngọt hơn tất cả những hương vị khác, Hạnh phúc trong Phật Pháp, an lạc hơn tất cả những hạnh phúc khác, Chấm dứt được lòng tham muốn, là xa lìa tất cả mọi khổ đau.

Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về bốn câu hỏi của Vua Trời Đế Thích (Sakka), vua của các thiên thần.

một lần, trong một buổi họp của các thiên thầncõi trời Tāvatiṃsa (cõi trời Ba Mươi Ba, hoặc là cõi trời Đao Lợi), bốn câu hỏi được đặt ra, và không thiên thần nào có câu trả lời chính xác. Cuối cùng, vua Trời Đế Thích dẫn các thiên thần đến gặp Đức Phật tại Tu Viện Kỳ Viên. Sau khi giải thích sự khó khăn của họ, vua Trời Đế Thích đã thưa hỏi Đức Phật bốn câu hỏi sau đây:

(1) Trong số tất cả những món quà tặng, món quà tặng nào là cao quý nhất?
(2) Trong số tất cả các hương vị, hương vị nào là thơm ngọt nhất?
(3) Trong số tất cả các niềm hạnh phúc, niềm hạnh phúc nào là an lạc nhất?
(4) Tại sao chấm dứt được lòng tham muốn, là việc làm xuất sắc nhất?

Đức Phật đã trả lời các câu hỏi nầy như sau, "Nầy, Đế Thích, Phật Pháp chính là món quà tặng cao quý nhất, là hương vị thơm ngon nhất, và là niềm hạnh phúc an lạc nhất. Chấm dứt được lòng tham muốn, là dẫn đến quả vị A La Hán, cho nên, điều nầy chính là việc làm xuất sắc nhất".

Vào cuối bài giảng, vua Trời Đế Thích nói với Đức Phật, "Bạch Thế Tôn, món quà tặng về Phật Pháp cao quý hơn tất cả các món quà tặng khác, thế thì, bất cứ khi nào những món quà Phật Pháp được biếu tặng, tại sao chúng ta không chia sẻ công đức nầy cho mọi người? Con nguyện cầu rằng, từ bây giờ trở đi, chúng ta có thể chia sẻ giá-trị của việc làm thiện-lành đến với mọi người." Sau đó, Đức Phật yêu cầu tất cả các nhà sư nhóm họp lại, và khuyến khích họ chia sẻ giá trị của việc làm thiện-lành đến cho mọi người (hồi hướng công đức). 

Kể từ ngày đó trở đi, điều nầy đã trở thành một thông lệ cho mọi chúng sanh trong ba-mươi-mốt cõi (bhumis), sau mỗi lần làm xong việc thiện (thí dụ như sau khi nghe Phật Pháp, hoặc tụng kinh), họ sẽ chia sẻ giá trị của việc làm thiện-lành đến cho mọi người (hồi hướng công đức).

BÀI KỆ 354, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:   

dhammadānaṃ sabbadānaṃ jināti sabbaṃ rasaṃ jināti dhammaratī sabbaṃ ratiṃ jināti
dhammaraso taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ jināti

dhammadānaṃ: món quà tặng về Phật Pháp; sabbadānaṃ: tất cả những món quà tặng; jināti: chinh phục; dhammaratī: hương vị của Phật Pháp; ratiṃ sabbaṃ: thơm ngọt hơn tất cả các hương vị khác; jināti: chinh phục; dhammaratī: hạnh phúc trong Phật Pháp; sabbaṃ ratiṃ: an lạc hơn tất cả các hạnh phúc khác; taṇhakkhayo: chấm dứt được lòng tham muốn; sabbadukkhaṃ: tất cả mọi khổ đau; jināti: chinh phục.

Món quà tặng về Phật Pháp, cao quý hơn tất cả những món quà tặng khác; hương vị Phật Pháp, thơm ngọt hơn tất cả những hương vị khác; hạnh phúc trong Phật Pháp, an lạc hơn tất cả những hạnh phúc khác; chấm dứt được lòng tham muốn (nghĩa là, đạt được quả A La Hán), là xa lìa tất cả mọi khổ đau (đau khổ vì phải sống trong vòng sinh-tử).

Bài kệ 354 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:

(354) Coi như bố thí hàng đầu. Là đem Chân Lý nhiệm mầu tặng nhau, Coi như hương vị tối cao. Hương vị Chân Lý ngọt ngào dài lâu. Coi như hoan hỷ hàng đầu. Niềm vui Chân Lý thấm sâu tuyệt vời, Người nào ái dục diệt rồi. Vượt qua phiền não, xa rời khổ đau.

BÌNH LUẬN

sabbadānaṃ Dhammadānaṃ: Món quà tặng về Phật Pháp cao quý hơn tất cả các món quà tặng. Để làm sáng tỏ câu nói trên, Đức Phật còn nói thêm rằng, tất cả những món quà-tặng vật-chất tuyệt vờiấn tượng dâng lên cúng Phật, Pháp và Tăng Đoàn đã xảy ra tốt đẹp, bởi vì trước đó, món quà tặng về Phật Pháp đã xảy ra. Chính món quà tặng về Phật Pháp đã thuyết phục những người tài trợ hiến tặng các đóng góp về vật chất khác. Ngay cả các vị hiền thánh vĩ đại đạt được các quả vị tinh thần cao quý‎, hoàn toàn bởi vì trước đó, họ đã nhận được những món quà tặng về Phật Pháp.

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

 

SHORT TITLE:

The Story Of The Questions Raised By Sakka, Verse 354, Treasury Of Truth

 FULL TITLE:

The Conquests Of All Suffering - The Story Of The Questions Raised By Sakka, Verse 354 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net

VERSE 354:

354. Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti
sabbaṃrasaṃ dhammaraso jināti
sabbaṃratiṃ dhammaratī jināti
taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ jināti. (24:21)

354. Gift of Dhamma surpasses all gifts,
the Dhamma, its taste all other tastes beats,
delight in the Dhamma bests other delights,
destruction of craving conquers all ill.

While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse, with reference to four questions raised by Sakka, king of the devas.

On one occasion, at a meeting of the devas in the Tāvatiṃsa realm, four questions were raised, but the devas failed to get the correct answers. Eventually, Sakka took these devas to the Buddha at the Jetavana Monastery. After explaining their difficulty, Sakka presented the following four questions:

(1) Among gifts, which is the best?
(2) Among tastes, which is the best?
(3) Among delights, which is the best?
(4) Why is the eradication of craving said to be the most excellent?

To these questions, the Buddha replied, “O’ Sakka, the Dhamma is the noblest of all gifts, the best of all tastes and the best of all delights. Eradication of craving leads to the attainment of arahatship and is, therefore, the greatest of all conquests.”

At the end of the discourse, Sakka said to the Buddha, “Venerable, if the gift of the Dhamma excels all gifts why are we not invited to share the merit whenever gifts of the Dhamma are made? I pray that, from now on, we may be given a share in the merit of good deeds.” Then the Buddha asked all the monks to assemble and exhorted them to share the merit of all their good deeds with all beings.

Since then, it has become a custom to invite all beings from the thirty-one realms (bhumis) to come and share merit whenever a good deed is done.

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 354)

dhammadānaṃ sabbadānaṃ jināti sabbaṃ rasaṃ jināti dhammaratī sabbaṃ ratiṃ jināti dhammaraso taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ jināti

dhammadānaṃ: the gift of dhamma; sabbadānaṃ: all gifts; jināti: conquers; dhammaratī: the flavour of the dhamma; sabbaṃ ratiṃ: all flavours conquers; jināti: conquers; dhammaratī: the love of dhamma; sabbaṃ ratiṃ: all loves conquer; taṇhakkhayo: he who has got rid of craving; sabbadukkhaṃ: all sufferings; jināti: conquers.

The gift of the Dhamma excels all gifts; the taste of the Dhamma excels all tastes; delight in the Dhamma excels all delights. The eradication of craving (i.e., attainment of arahatship) overcomes all ills (saṃsāra dukkha).

COMMENTARY

sabbadānaṃ Dhammadānaṃ: The gift of Dhamma conquers all gifts. The Buddha, elucidating this statement, further stated all the great and impressive material gifts to the Buddha, the Dhamma and the Sangha were made possible because, initially, the gift of Dhamma had been made. The gift of Dhamma persuaded the donors to make these other material donations. Even great saints achieved their high spiritual conquests entirely because of the gift of Dhamma they received.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7570)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7605)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6156)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 10030)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7130)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7361)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 7030)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9406)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5896)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7141)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6568)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6144)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7202)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14445)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20518)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9505)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7928)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8223)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7478)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9418)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7507)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7504)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7690)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9509)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8811)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7441)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7996)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7055)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7711)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9891)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8305)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8875)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7721)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8865)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8679)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8017)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9057)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9470)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8797)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8930)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7252)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9220)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8647)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7912)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9663)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10229)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8809)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8420)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7675)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9367)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7515)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15390)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7347)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8529)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12301)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7339)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11538)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8342)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8060)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7934)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant