Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thường Bất Khinh

20 Tháng Bảy 201617:31(Xem: 7927)
Thường Bất Khinh

THƯỜNG BẤT KHINH

Nguyễn Thế Đăng

Thuong Bat Khinh

 

Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh? Tỳ-kheo ấy mỗi khi thấy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đều lễ bái tán thán mà nói rằng: ‘Tôi kính trọng sâu xa các vị, không dám khinh mạn. Vì sao như vậy? Các vị đều hành Bồ-tát đạo, sẽ được làm Phật’. Vị Tỳ-kheo đó chẳng chuyên tụng đọc kinh điển, chỉ thực hành lễ bái tán thán mà nói rằng: Tôi không dám khinh thường quý vị, quý vị đều sẽ làm Phật”. (Phẩm Bồ-tát Thường Bất Khinh, thứ 20).

Vị Tỳ-kheo ấy chẳng dám khinh người mà thường kính trọng sâu xa vì nơi mỗi người đều có Hoa sen Diệu pháp, đều có Phật tánh. Thậm chí đối với người thấp kém, xấu ác, Tỳ-kheo ấy vẫn một lòng kính trọng.

“Trải qua nhiều năm như vậy, thường bị mắng nhiếc, chẳng sanh giận hờn, thường nói: ‘Các vị sẽ làm Phật’. Khi nói như vậy, người ta lấy gậy cây gạch đá để đánh ném. Ông chạy tránh ra xa mà vẫn cao giọng xướng rằng: ‘Tôi chẳng dám khinh các người, các người đều sẽ thành Phật’. Bởi ông thường nói như vậy nên các Tăng, Ni, cư sĩ kiêu mạn quá mức gọi ông là Thường Bất Khinh”.

 Nhờ làm hạnh thường chẳng khinh này vị Tỳ-kheo ấy dần dần ngộ nhập kinh Pháp Hoa. Vị Tỳ-kheo ấy chính là Phật Thích-ca Mâu-ni thuở còn là Bồ-tát.

Thấy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đó là cái thấy biết của Phật. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đây là nền tảng của Kinh Pháp Hoa. Tất cả các pháp môn trong Kinh Pháp Hoa đều khởi từ Nền tảng này để thành tựu trong chính Nền tảng Nhất thừa này.

Thấy được như vậy và giữ được cái Thấy ấy không mất, đây là Thiền định. Thực hành cái thấy ấy qua hành động thân khẩu ý, đây gọi là Hạnh. Cái Thấy, Thiền định và Hạnh đã tròn vẹn, đó là Quả.

Bồ-tát Thường Bất Khinh có thái độ như vậy vì ngài thấy chúng sanhPhật tánh:

“Bồ-tát Thập Trụ, chư Phật mắt thấy chúng sanh có sẵn Phật tánh. Bồ-tát Thập Trụ thấy Phật tánh được một ít phần. Phật thì thấy Phật tánh trọn vẹn. Bồ-tát Thập Trụ thấy Phật tánh như đêm tối thấy hình sắc; Phật thấy Phật tánh như giữa ban ngày thấy hình sắc”. (Kinh Đại Bát Niết-bàn, phẩm Bồ-tát Sư tử hống).

Thấy chúng sanh có sẵn Phật tánh, có sẵn Hoa sen Diệu pháp là cái thấy của bậc Thập Trụ đi dần đến quả Phật. Thiền sư Chân Nguyên (1647-1726) nói trong Thiền tông bản hạnh:

               Thuở xưa hội cả Kỳ Viên

               Bụt cầm một đóa hoa sen giơ bày

               Ca-diếp trí huệ cao tay

               Liễu ngộ tự tánh bằng nay mỉm cười

               Trần trần sát sát Như Lai

               Chúng sanh mỗi người mỗi có hoa sen

               Hoa là bản tánh tự nhiên

               Bao hàm thiên địa phương viên cùng bằng

                Hậu học đã biết hay chăng

               Tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời

               Thiêng liêng ứng khắp mọi nơi

               Lục căn vận dụng trong ngoài thần thông.

Tại sao cái thấy chúng sanh có sẵn Phật tánh đưa hành giả đến giác ngộ? Bởi vì trong cái thấy ấy có Trí huệTừ bi, là hai cột trụ của Đại thừa.

Cái thấy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh xóa đi sự phân biệt giả tạo giữa ta và người, xóa đi một cái ta cô lập với người khác và thế giới, đưa hành giả vượt khỏi bốn tướng ta, người, chúng sanh, thọ mạng. Lìa các tướng phân biệt, chia cắt tạo thành sanh tử khổ đau, đó là trí huệ.

Cái thấy chúng sanh đều có Phật tánh khiến cho hành giả mở rộng tâm để hòa nhập với tất cả chúng sanh. Đây được gọi là đồng thể đại bi.

Hạnh lễ bái bằng một cái tâm thường chẳng khinh vì ai cũng có Phật tánh đã chuyển hóa những nghịch duyên giận hờn, khinh bỉ, chia rẽ thành duyên gặp gỡ trong chính Phật tánh khi vị Bồ-tát thành Phật:

“Đắc Đại Thế! Ý ông thế nào? Bốn chúng có lòng giận hờn khinh bỉ vị Bồ-tát thuở đó đâu phải ai xa lạ, chính là các ông Bạt-đà-bà-la năm trăm Bồ-tát, các ông Sư Tử Nguyệt năm trăm Tỳ-kheo, Các ông Ni-tư-phật năm trăm cư sĩ nam, nay đang ở trong hội này, đều là những người không thối chuyển với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Đắc Đại Thế! Phải biết kinh Pháp Hoa này rất lợi ích cho các Đại Bồ-tát, có thể làm cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thế nên các Đại Bồ-tát sau khi Như Lai diệt độ phải thường thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh này”. (Phẩm Bồ-tát Thường Bất Khinh, thứ 20). 

Bồ-tát Thường Bất Khinh đã thường thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh Pháp Hoa này bằng chỉ một hạnh lễ bái tán thán, “tôi không dám khinh thường các vị, các vị đều sẽ thành Phật” cho nên “có thể mau được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Nhờ hạnh thường chẳng khinh ấy mà cuối cùng thấy thật tướng của chúng sanhPhật tánh. Thấy trọn vẹn Phật tánh tức là thành Phật.

Thấy rõ ràng Phật tánh nghĩa là thấy không có sự vật nào, không có chúng sanh nào ở ngoài Phật tánh. Như thấy rõ ràng tấm gương thì thấy không có một bóng nào ở ngoài tấm gương. Cho nên khi thấy không có sự vật nào, chúng sanh nào ở ngoài Phật tánh, khi ấy chúng ta đang ở trong Phật tánh.

Bất cứ khi nào chúng ta hành hạnh Thường Bất Khinh bằng thân khẩu ý của mình, khi ấy chúng ta đang tập làm theo sự phóng quang của Đức Phật. Phóng quang là phóng ánh sáng của Phật tánh “soi khắp một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, đều thấy sự trang nghiêm của các cõi nước Phật ấy” (Phẩm Tựa), “khiến những cõi nước thông làm một cõi nước Phật” (Phẩm Hiện Bửu tháp), như Đức Phật đã làm nhiều lần trong kinh. Sức mạnh của ánh sáng ấy là trí huệtừ bi để “thống nhất Phật độ”.

Hành hạnh Thường Bất Khinh bằng thân khẩu ý của mình là phóng quang để thống nhất thành một cõi Phật, tức là thành pháp giới Nhất Chân Pháp Hoa. Hành hạnh Thường Bất Khinh sẽ đưa chúng ta dần dần “nhập” pháp giới Nhất Chân Pháp Hoa ấy.

(Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 248)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6948)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
(Xem: 9677)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
(Xem: 23181)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8155)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20592)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19585)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18464)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16314)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15976)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19141)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14366)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9676)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8773)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8239)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8944)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 11025)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9171)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8941)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 7997)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9127)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35682)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8601)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15151)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8738)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15343)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9202)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8877)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9400)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8512)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10339)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7705)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9593)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7559)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17286)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15071)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9545)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20930)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9251)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7197)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17762)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17687)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25871)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7857)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9953)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7294)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9689)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8171)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9136)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7444)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8824)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7952)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8387)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7563)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8764)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8193)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8915)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7325)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 14041)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7148)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
(Xem: 10397)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant