Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giới Thiệu Lịch Sử Truyền Dịch Bát-nhã Tâm Kinh

10 Tháng Chín 201609:26(Xem: 8446)
Giới Thiệu Lịch Sử Truyền Dịch Bát-nhã Tâm Kinh

GIỚI THIỆU LỊCH SỬ TRUYỀN DỊCH
BÁT-NHÃ TÂM KINH 
Phước Nguyên
batnhatamkinh

1/ KINH BẢN VÀ HUYỀN THOẠI

a. Truyền bản thủ pháp Siddam

Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối. Hiện tại, có hai lược bản Siddham được lưu trữ tại Nhật Bản, một bản được bảo tồn tại Hasedera (Trường Cốc tự, bản 1), còn một bản khác bảo tồn tại Hòryùji (Pháp Long tự, bản 2). Truyền thuyết cho rằng Tổ sư Bồ-đề Đạt-ma mang hai bản Tâm kinh Bát-nhã chép bằng mẫu tự Siddam đến Trung Hoa, rồi từ đó được truyền sang Nhật Bản.  Nhưng gần đây, qua sự kiểm chứng của các học giả phương Tây, xác định lược bản Siddham bảo tồn tại Hòryùji từ năm 609 đến nay được phiên dịch từ bản Hán ngữ của Huyền Tráng chứ không phải nguyên bản Sanskrit như nhiều vị trước đây đã nhầm lẫn.

Bởi vì, khi so sánh lược bản Devanagari và bản dịch Hán văn của ngài Huyền Tráng, cũng như bản La-thập, chúng ta thấy rằng có những điểm khác biệt như sau:

-Bản Devanagari không có câu: Độ nhất thiết khổ ách 度一切苦厄.

-Bản Devanagari có thêm câu: iha śāriputra rūpaṃ śūnyatā, śūnyataiva rūpam “SẮC ở đây là TÍNH KHÔNG, TÍNH KHÔNG là SẮC[2];

-Bản Devanagari có thêm: nābhisamayas “và không có hiện chứng”, sau phần "vô trí diệc vô đắc無智亦無得" của bản Huyền Tráng.

Một điều đáng chú ý là lược bản Siddam 2 lại rất giống với bản Hán văn của Huyền Tráng, tức có những phần thừa thiếu như trên.  Vì thế mà một số học giả Tây phương gần đây giả thiết rằng lược bản Siddam 2 này là phiên dịch từ bản của Huyền Tráng, chứ không phải là nguyên bản Sanskrit như F. Max Muller và Nanjo Bujiu đã lầm tưởng.

Nhưng cũng nên nói thêm rằng, Shotoku Taishi (Thánh Đức thái tử) ban chiếu chỉ kiến lập Hòryùji (Pháp Long tự) vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII, tức trong thời gian trị vì của ông từ những năm 593 - 622, mục đích là để làm nơi bảo tồn và thờ kính lược bản Siddam 2 này. Như thế thì các học giả Tây phương đưa ra quan điểm trên đã phạm phải lỗi về thời gian tính, tức lầm lẫn về niên đại của văn bản hoặc sự kiện, vì Huyền Tráng dịch Tâm kinh là vào năm 649, sau sự xuất hiện của bản Siddam 2 này.

b. Các truyền bản Sanskrit

Thủ bản Sanskrit được công bố sớm nhất vào năm 1894, do công của học giả Nanjō Bunyū là người đầu tiên khám phá ra hai bản Siddam viết trên lá bối đã nói trên, nhưng ông chỉ tập thành, mà không phiên dịch ra Anh văn, và đăng trong Anecdota Oxoniensia, t.1, tháng 3 (1884).

Không lâu sau đó, có F. Max Muller là người đầu tiên tập thành và dịch cả hai lược bản và quảng bản từ bản lá bối Siddam lưu trữ ở Nhật tại chùa Hôryoji ra Anh văn in trong Sacred Books of the East (Đông phương thánh thư), tập 49, phần 2, trang 147 – 154; hai bản dịch này cũng được hiệu đính và in trong Buddhist Texts from Japan III, Anecdota Oxoniensia, 1894.

Nhưng phải đợi đến thời Edward Conze thì Tâm kinh Bát-nhã mới được chú ý nghiên cứu rộng rãi, ông là người đã tập thành hai bản kinh này bằng mẫu tự Devanagari mới được ông tìm thấy ở Bắc Ấn, lược bản do ông biên tập ngày nay vẫn còn đọc được với nhan đề: Prajñāpāramitāhṛdaya-sutra, bản này khá phổ biếnnghiên cứu nhiều nhất, in trong trong Buddhist Sanskrit Texts No. 17, Mahāyāna-sūtra-saṁgrahaḥ (part 1)[3].

Giáo sư H. W. Bailey cũng khám phá được một quảng bản của Tâm kinh bằng tiếng Ku-stana (Khotan, Vu Điền), được nói là xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ VIII, và xác định là dịch phẩm từ quảng bản của Hán văn; thủ bản Ku-stana này hiện được bảo tồn trong Fonds Pelliot Collection của Thư viện Quốc gia Pháp.

Một thủ bản Sanskrit khác, được công bố tại Paris, in trong Mission Pelliot en Asie centrale: Série in-Quarto[4]năm 1940, bản này không phổ biến cho lắm, có lẽ do vì tả bản có nhiều chữ chép bị lầm và không đầy đủ như bản của Ed. Conze hay D.T.Suzuki.

D.T. Suzuki dịch lược bản Prajñāpāramitāhṛdaya-sutra và đăng trong quyển 3 Essays in Zen Buddhism (Thiền Luận, Essays III 190), theo ghi nhận của Suzuki ngoài dựa trên bản của Max Muller ông còn tham khảo bản Phạn-Hán của Huyền Tráng, cùng với một số ít thay đổi dựa trên các bản Hán dịch khác; bản của Suzuki cũng có một số khác biệt so với bản P.L. Vaidya, những điểm này sẽ được ghi nhận trong phần chú giải.

Ngoài ra, còn có H. L. Feer chỉ tập thành và chú giải quảng bản, in trong L"Essence de la Science transcendante en langues, Tibetain, Sanscrit, Mongol (Paris, 1886).

Còn nói về Truyền bản phiên âm Phạn-Hán của Huyền Tráng, theo sự ghi chép của chính ngài Huyền Tráng, khi đang trên đường đi Ấn độ, lúc còn ngụ tại chùa Không huệ, Ích châu, có gặp một thầy tăng ghẻ choc bệnh hoạn... Huyền Tráng dẫn vào chùa, tặng cho y phụcthực phẩm Thầy tăng bịnh ấy bèn trả ơn bằng cách dạy Pháp sư học thuộc bài kinh Bát-nhã ngắn gọn này. Sau đó, Huyền Tráng tiếp tục hành trình đi Ấn độ, lúc đến sa mạc Gobi (Mạc-hạ-diên/Sa hà) một bãi cát dài mênh mông trên 800 dặm, không chim thú, không cỏ cây, mây nước, gặp phải những gian nan và tân khổ qua những cảnh hoang dã bị bao phủ trong tuyết lạnh, bị cuốn bởi những ngọn gió lốc ào ạt, và thú dữ thường xuyên qua lại, Huyền Tráng một mình một bóng, đã vượt qua khỏi đoạn đường đầy kinh sợ đó bằng lời kinh “Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh” [5]

Huyền thoại còn kể thêm rằng, về sau, trong thời lưu trú tại Ấn độ, lúc ở tại chùa Na-lan-đà, nước Ma-kiệt-đà (Magadha), bất ngờ gặp lại thầy tăng trước kia. Vị tăng nói:

“Sư đã lặn lội hiểm nguy, cuối cùng đến được chốn này. Đó là nhờ vào pháp môn tâm yếu của chư Phật ba đời mà tôi đã truyền dạy cho thầy tại Chi-na. Nhờ kinh đó mà thầy được bảo hộ trên suốt cuộc hành trình. Nay đã thỉnh được kinh, chí nguyện của thầy đã trọn vẹn rồi. Ta là Bồ-tát Quán thế âm đây.” Nói xong ngài biến mất vào hư không[6].

Sau này, trở về Trung Quốc Huyền Tráng khởi sự công trình phiên dịch của mình, bản Hán Tâm Kinh của Huyền Tráng sao lục nguyên văn không nhuận sắc hay sửa đổi vì được nói là do chính Pháp sư Huyền Tráng thọ trì từ đức Bồ-tát Quán Tự tại, tuy rằng nó có nhiều chỗ không đồng nhất với bản phiên âm Phạn-Hán được chép trên vách đá chùa Hưng thiện, Tây kinh. Truyền bản Phạn, từ đó là bản Hán âm và dịch của Huyền Tráng, được gọi là Lược bản.

Hiện nay vẫn còn đọc được bản Phiên âm Phạn Hán này bảo tồn trong Đại Tạng Kinh 08, số hiệu 0256, Đường Phạn Phiên Đối Tự Âm Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh, 1 quyển.

Tâm kinh lược bản Sanskrit (P.L. Vaidya) hiện lưu hành về cơ bản tương đương với bản Phiên âm Phạn-Hánchùa Hưng thiện. Sau này, nó được Truyền giáo Đại sư Không Hải, ghi chép mang về Nhật Bản, lưu truyền như là tàng bản tại chùa Pháp long, điều này được ghi nhận trong Đại Tạng Kinh 55, số hiệu 2160, trang 1058b28: 傳教大師將來越州錄: 般若心經梵本漢字一卷 truyền giáo Đại sư tương lai việt châu lục: Bát-nhã tâm kinh Phạn bản Hán tự, 1 quyển.

Ngoài ra, bản Sanskrit này còn được ghi nhận trong các kinh lục khác của Nhật bản:

Đại Tạng Kinh 57, số hiệu 2167, Nhập Đường Tân Cầu Thánh Giáo Mục Lục入唐新求聖教目錄, 1 quyển, Nhật Bản Viên Nhân soạn:  唐梵對譯般若心經 Đương Phạn đối chiếu Bát-nhã tâm kinh, 1 quyển[7].

Đại Tạng Kinh 57, số hiệu 2168b, Huệ Vận Luật Sư Thư Mục Lục, 1 quyển, Nhật Bản Huệ Vận soạn:梵本般若波羅密多心經一卷(醴泉寺般若三藏梵本) Phạn bản Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh (Bát-nhã Tam tạng Phạn bản), 1 quyển[8].

Còn có các bản  khác như: Pháp long tự (Đại hòa), tối cổ Phạn bản; Nguyên lộc 7Tịnh Nghiêm thư tả, cú nghĩa chú; An chinh 6, Y Thế tông Uyên mô khắcA-xoa-la thiếp thâu lục v.v..

2/ TRUYỀN BẢN TÂY TẠNG

Vào khoảng thế kỷ VIII, các bản Tâm kinh chép bằng tiếng Tây Tạng lần lượt xuất hiện, theo ước tính có tất cả có 7 bản. Người dịch đầu tiên là Vimalamitra, nhưng theo Ed. Conze có ý kiến rằng bản dịch lần hai của Prasastrasena là chính xác nhất.

Ngoài ra, ở trong Mongolian Kanjur (Đại Tạng kinh Mông Cổ) cũng có một bản, in trong Bí Mật Kinh[9]. Điều đáng chú ý là kinh này không có trong Kinh tạng Pali.

Gần đây, học giả R. Exell dùng lược bản Sanskrit Devanagari phiên dịch ra Pali, đăng trong The Wisdom gone beyond, do hội Social Science Association Press của Thái Lan phát hành (trang 6).

Hiện tại có thể tìm thấy trong Đại Tạng Kinh Tây Tạng, ấn bản Tokyo tồn tại những bản dịch Tâm kinh Bát-nhãnhư sau:

-Thông trật đệ 88 Na, No. 531, trang 94b1-95b3, བཅོམ་ལྡན་འདས་མ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོ Bcom-ldan-ḥdas-ma śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-paḥi sñiṅ-poBạc-già-phạm-đế Bát-nhã Ba-la-mật đa tâm 薄伽婆帝般若波羅蜜多心 (Skt. Bhagavatīprajñāpāramitāhṛdaya), do Rin-chen sde và Vimalamitra cùng dịch, hiệu đính bởi Dge-blo và Nam-mkhaḥ[10].

-Thông trật đệ 170Ju, No.2640, trang 243b4-245b2, ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོའི་སྒྲུབ་ཐབས། Śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-paḥi sñiṅ-poḥi sgrub-thabsBát-nhã ba-la-mật-đa tâm thành tựu pháp (skt.Prajñāpāramitāhṛdayasādhana),  tác giả: Klu-sgrub sñiṅ-po,  dịch bản của Klan chuṅ và Vairocanarakṣita, và Rtag lo-tsā-ba hiệu đính.

-Thông trật đệ 170Ju, No.2641, trang 245b3-246b2, ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོའི་སྒྲུབ་ཐབས་ཞེས་བྱ་བ། Śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-paḥi sñiṅ-poḥi sgrub-thabs shes-bya-baBát-nhã ba-la-mật-đa tâm thành tựu pháp 般若波羅蜜多心成就法 (skt.pajñāpāramitāhṛdayasādhana-nāma),  tác giả: Dārika-pa.

-Thông trật đệ 197Ma, No.3818, trang 267b1-280b7, འཕགས་པ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོའི་རྒྱ་ཆེར་བཤད་པ Ḥphags-pa śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-paḥi sñiṅ-poḥi rgya-cher bśad-pa Thánh Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm (kinh) quảng sớ 聖般若波羅蜜多心(經)廣疏 (Skt. Ārya-prajñāpāramitāhṛdayaṭīkā), tác giả: Vimalamitra, dịch bản của Nam-mkhaḥ ye-śes sde và Vimalamitra.

- Thông trật đệ 197Ma, No.3819, trang 280b7-286b4, འཕགས་པ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོའི་རྣམ་པར་བཤད་པ Ḥphags-pa śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-paḥi sñiṅ-poḥi rnam-par-bśad-paThánh Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm (kinh) giải thuyết 聖般若波羅蜜多心(經)解說 (skt. Ārya-prajñāpāramitāhṛdayavyākhyā ), tạo bởi Jñānamitra.

-Thông trật đệ 197Ma, No.3820, trang 286b5-295a7, བཅོམ་ལྡན་འདས་མ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོའི་འགྲེལ་པ་དོན་གྱི་སྒྲོན་མ་ཞེས་བྱ་བ Bcom-ldan-ḥdas-ma śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-paḥi sñiṅ-poḥi ḥgrel-pa don-gyi sgron-ma shes-bya-ba 薄伽梵母般若波羅蜜多心(經)註義燈, Bạc-già-phạm mẫu Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm (kinh) chú nghĩa đăng (Skt.Bhagavatīprajñāpāramitāhṛdayaṭīkārtha-pradīpa-nāma), tác giả: Phyag-na rdo-rje, dịch sư Seṅ-ge rgyal-mtshan và Phyag-na rdo-rje.

- Thông trật đệ 197Ma, No.3821, trang 295a7-303b7, འཕགས་པ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོ་རྒྱ་ཆེར་འགྲེལ་པ Ḥphags-pa śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-paḥi sñiṅ-po rgya-cher ḥgrel-peThánh Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm (kinh) quảng chú 聖般若波羅蜜多心 (經) 廣註, (skt. Ārya-prajñāpāramitāhṛdayaṭīka), tác giả: Praśāstrasena

- Thông trật đệ 197Ma, No.3822, trang 303b7-313a4, ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོའི་དོན་ཡོངས་སུ་ཤེས་པ śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-paḥi sñiṅ-poḥi don yoṅs-su-śes-paBát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh nghĩa chánh tri 般若波羅蜜多心(經)義正知 (skt. Ārya-prajñāpāramitāhṛdayārthaparijñāna),  tác giả Śrīmahājana và Seṅ-ge rgyal-mtshan.

3/ TRUYỀN BẢN HÁN DỊCH

Bát-nhã Tâm kinh Hán dịch đầu tiên có lẽ được tìm thấy trong Đại Tạng kinh 55, số hiệu 2145, Xuất Tam tạng ký tập 4, bản Kinh lục sớm nhất của Tăng Hựu. Đó là, Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật thần chú, 1 quyển 摩訶般若波羅蜜神咒一卷, và Bát-nhã-ba-la-mật thần chú, 1 quyển 般若波羅蜜神咒一卷. Nhưng cả hai đều được liệt vào các kinh dịch đã thất truyền, do đó không rõ nội dung như thế nào, không biết nó là bản ngắn hay bản dài, hay chỉ là đoạn thần chú[11].

Đại Tạng Kinh 49, số hiệu 2043, Lịch đại Tam bảo kỷ 4 ghi nhận trong hai bản đó, một bản được Phí Trường Phòng liệt vào các kinh dịch đời Hậu Hán nhưng đã thất truyền, nhan đề là: Bát-nhã ba-la-mật thần chú kinh, 1 quyển (hoặc không có chữ Kinh) 費長房 歷代三寶紀 般若波羅蜜神咒經一卷(或無經字)[12].

Bản thứ hai cũng trong Lịch đại Tam bảo kỷ 4Ma-ha Bát- nhã ba-la-mật chú kinh, 1 quyển (thấy trong Bảo xướng lục, hoặc gọi là Bát-nhã ba-la-mật chú kinh). 摩訶般若波羅蜜咒經一卷見寶唱錄或直云般若波羅蜜咒經) được liệt trong số các kinh dịch thời Ngô Ngụy (Tam quốc), xác định là do Ưu-bà-tắc Chi Khiêm (phiên dịch, A.D. 223-253), người Nhục-chi, dịch dưới thời Ngụy Văn đế[13]. Bản này hiện cũng thất truyền.

Theo truyền thống Hán Tạng thì bản dịch sớm nhất là có lẽ của Chi Khiêm, năm 223, nhưng đã thất lạc. Hiện lưu truyền trong Đại Tạng Kinh Hán dịch, chỉ thấy hai bản dịch Tâm kinh bản ngắn:

- Đại Tạng Kinh 08,  No. 0250, Ma Ha Bát-nhã Ba La Mật Đại Minh Chú Kinh, 1 quyển, Diêu Tần Cưu Ma La Thập dịch. Bản này là bản dịch sớm nhất hiện còn, được dịch năm 402 đời nhà Tần.

-Đại Tạng Kinh 08,  No.0251, Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh, 1 quyển, Đường Huyền Tráng dịch. Bản này dịch sau bản La-Thập hơn hai trăm năm, ngài Huyền Tráng vào năm 649, đầu tiên được khắc vào bia đồng trước cổng chùa Bạch Mã nơi Huyền Tráng trụ trì và dịch thuật kinh điển.

Nếu đem so sánh với truyền bản của Huyền Tráng, thì bản của La Thập cho thấy gần hơn với một đoạn trong Tạng Kinh 08, số hiệu 223, Đại phẩm Bát-nhã, quyển 1, phẩm 3 “Tập tương ưng” 摩訶般若波羅蜜經卷第一習應品第三[14]; hay Đại Tạng Kinh 07, số hiệu 220, Đại bát-nhã, phần hai, quyển 403, phần II, phẩm 3 “Quán chiếu”大般若波羅蜜多經卷第四百三 第二分觀照品第三之二[15].

Ngoài ra, còn có ngài Nghĩa Tịnh dịch lược bản, đại khái như bản Huyền Tráng, duy phần chú thì dùng Siddam chứ không dịch âm Phạn-Hán. Cả ba lược bản này về ý nghĩa tương đối giống nhau, duy bản Huyền Tráng vì văn chương lưu loát hơn cả, nên rất được phổ biến.

Tâm kinh Quảng được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát-Nhã và Lợi Ngôn trùng dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần cuối, cộng lại có tất cả 7 bản, nếu ta kể cả bản của Pháp Thành đời nhà Đường vừa tìm thấyĐôn Hoàng. Tâm kinh Bát-nhã quảng bản và những bản chú giảitham khảo thêm ở trong Đại Chánh Tân Tu:

-Đại Tạng Kinh 09, No. 0252, Phổ Biến Trí Tạng Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm Kinh普遍智藏般若波羅蜜多心經, 1 quyển, Đường Pháp Nguyệt trọng dịch.

- Đại Tạng Kinh 09, No. 0253, Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm Kinh般若波羅蜜多心經, 1 quyển, Đường Bát-nhã và Lợi Ngôn cùng dịch.

- Đại Tạng Kinh 09, No. 0254, Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm Kinh 般若波羅蜜多心經, 1 quyển, Đường Trí Tuệ Luân dịch.

- Đại Tạng Kinh 09, No. 0255, Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh (bản Thạch thất Đôn hoàng) 般若波羅蜜多心經 (燉煌石室本),Tam tạng Pháp sư Sa môn Pháp Thành dịch.

- Đại Tạng Kinh 09, No. 0257, Phật thuyết Thánh Phật mẫu Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, Thi Hộ dịch 佛說聖佛母般若波羅蜜多經.

Hiện nay, còn bảo tồn được khá nhiều bản sớ giải, xin lược nêu một vài bản như sau:

Đại Tạng Kinh 33, số hiệu 1710, Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh U Tán, 2 quyển, [ Đường Khuy Cơ soạn.

Đại Tạng Kinh 33, số hiệu 1711, Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh Tán, 1 quyển,  Đường Viên Trắc soạn.

Đại Tạng Kinh 33, số hiệu 1712, Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh Lược Sớ, 1 quyển, Đường Pháp Tạng thuật.

Đại Tạng Kinh 33, số hiệu 1713, Bát-nhã Tâm Kinh Lược Sớ Liên Châu Kí, 2 quyển, Tống Sư Hội thuật.

Đại Tạng Kinh 33, số hiệu 1714, Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh Chú Giải, 1 quyển, Minh Tông Lặc và Như Khí đồng chú.

4/ BẢN DỊCH NGÔN NGỮ PHƯƠNG TÂY

a/Tiếng Anh

Riêng về bản dịch Anh ngữ có những vấn đề riêng của nó, hiện nay có rất nhiều bản dịch Anh từ bản Sanskrit và bản Hán Huyền Tráng, mỗi bản đều có một vài khuyết điểm riêng, hoặc không sát nghĩa, hoặc dài dòng lủng củng. Vì vậy, trong phần phụ lục văn chúng tôi sẽ tổng hợp các bản dịch của Suzuki và Garma Chang, bỏ đi những đoạn dư thừa, thêm vào chỗ thiếu sót, để tạo thành một bản Anh dịch tạm gọi là đầy đủ và sát nghĩa nhất làm dịch bản cho bản Sanskrit Vaidya và Hán bản của ngài Huyền Tráng.

Những bản dịch Anh có thể tìm kiếm dễ dàng trên mạng Internet, ở đây chỉ xin nêu một số bản dịch phổ biến như sau:

Như đã nói ở phần đầu, bản dịch đầu tiên do Nam Điều & Muller tựa đề: The Smaller Pragñâ-pâramitâ-hridaya-sûtra, in trong Sacret Books of the East vol. xlix, 1894, bản này được dịch từ nguyên bản Sanskrit, ông còn dịch cả bản quảng bản Tâm kinh: The Larger Pragñâ-pâramitâ-hridaya-sûtra.

Bản dịch thứ hai, D.T. Suzuki dịch và in trong Essays in Zen Buddhism v.3 (Thiền Luận tập 3) của kèm theo bản Sanskrit Devanagari.

Bản dịch Anh thứ ba hiện khá phổ biến của Ed. Conze, tựa đề: The Perfection of Wisdom, dịch và hiệu chú từ bản Sanskrit, bản này văn nghĩa sáng tỏ, gãy gọn nên được giới học giả rất ưa chuộng[16].

Ngoài rathể tham khảo thêm một số bản dịch khác như sau:

- Geshe Rabten, Echoes of Voidness, Wisdom, Includes the Heart Sutra with Tibetan commentary 1983.

- Donald S. Lopez, Jr. The Heart Sutra Explained, SUNY, The Heart Sutra with a summary of Indian commentaries, 1987.

- Thích Nhất HạnhThe Heart of Understanding, Parallax Press, The Heart Sutra with a Vietnamese Thiền commentary, 1988.

- Norman Waddell, Zen Words for the HeartHakuin's Commentary on the Heart Sutra Shambhala Publications, Hakuin Ekaku's commentary on Heart Sutra, 1996.

- Donald S. Lopez, Jr. Elaborations on Emptiness, Princeton, The Heart Sutra with eight complete Indian and Tibetan commentaries, 1998.

- Edward Conze, Buddhist Wisdom: The Diamond Sutra and The Heart Sutra, Random House, The Diamond Sutra and The Heart Sutra, along with commentaries on the texts and practices of Buddhism, 2001.

-Tetsugen Bernard Glassman, Infinite Circle: Teachings in Zen, Shambhala Publications, Translations and commentaries of The Heart Sutra and The Identity of Relative and Absolute as well as Zen precepts, 2003.

-Geshe Sonam Rinchen, Heart Sutra: An Oral Commentary, Snow Lion, Concise translation and commentary from a Tibetan Buddhist perspective, 2003.

-Red Pine, The Heart Sutra: the Womb of Buddhas, Counterpoint, Heart Sutra with commentary 2004.

-14th Dalai Lama, Essence of the Heart Sutra, Wisdom Publications, Heart Sutra with commentary by the 14th Dalai Lama, 2005.

-Geshe Tashi Tsering, Emptiness: The Foundation of Buddhist Thought, Wisdom Publications, A guide to the topic of emptiness from a Tibetan Buddhist perspective, with English translation of the Heart Sutra, 2009.

-Karl Brunnholzl, The Heart Attack Sutra: A New Commentary on the Heart Sutra, Shambhala Publications, Modern commentary, 2012.

-Doosun Yoo, Thunderous Silence: A Formula For Ending Suffering: A Practical Guide to the Heart Sutra, Wisdom Publications, English translation of the Heart Sutra with Korean Seon commentary, 2013.

Kazuaki Tanahashi, The Heart Sutra: A Comprehensive Guide to the Classic of Mahayana BuddhismShambhalaPublications English translation of the Heart Sutra with history and commentary, 2015.

Beal, Samuel, “The Páramitá-hridaya Sútra, or, in Chinese ‘Mo-ho-pō-ye-po-lo-mih-to-sin-king’, i.e. ‘The Great Páramitá Heart Sútra’.” Journal of the Royal Asiatic Society of Great Britain and Ireland 1 (1865). 25-29.

- Hurvitz, Leon, “Two Polyglott Recensions of the Heart Scripture.” Journal of Indian Philosophy 3 (1975). 61-66.

- Charles Luk Hong Kong (?): n.d., The Heart Sutra. Translated into Chinese from Sanskrit by Hsuan Tsang. Translated into English from Chinese Version by Upasaka Lu K'uan-Yu 〔Charles Luk〕.陸寬昱居士(由中譯英)『心經』.

b/Tiếng Pháp

Những bản dịch và chú giải Tâm kinh bằng Tiếng Pháp khôngphong phú cho lắm, một số văn bản nên tham khảo như sau:

-Sa Sainteté le Dalaï-lama, Leçons de sagesse. Le soutra du cœur (2005), trad., Pocket, coll. "Littérature", 2006, 208 p.

- Albert Low, Que suis-je ? Comment lire le Sûtra du Cœur (2010), trad., iUniverse.com, 2011, 140 p.

-Lama Denys, Le sutra du cœur, Prajña, 2003, 89 p.

c/Tiếng Đức

Hiện tại, có thể tìm thấy năm bản dịch Tâm kinh bằng tiếng Đức riêng lẻ hoặc trong các bản chú giải:

-Taisen Deshimaru Roshi: Hannya-shingyô. Das Sutra der Höchsten Weisheit. Kristkeitz, Heidelberg-Leimen 2002.

-Thích Nhất HạnhMit dem Herzen verstehen. 7. Aufl. Theseus, Berlin 2000.

-Dalai Lama: Der buddhistische Weg zum Glück. Das Herz-Sutra. Barth, Frankfurt a.M. 2004.

-Agetsu Wydler Haduch: Das Herz-Sutra = Maka hannya haramita shingyo. 4. Aufl. Zentrum für Zen-Buddhismus, Zürich 2001.

-Geshe Rabten: Essenz der Weisheit. Ein Kommentar zum Herzsutra. Dharma edition, Hamburg 1990.

5/TÂM KINH TIẾNG NHẬT

Dưới đây là một số bản Tâm kinh và sớ giải Nhật ngữ hiện đại:

- Kim cang tú hữu 金岡秀友『般若心経 bát-nhã tâm kinh』 講談社文庫 Giảng đàm xã văn khố, 1973, 講談社学術文庫giảng đàm xã học thuật văn khố, 2001年。

- Phước tỉnh văn nhã 福井文雅 『般若心経の歴史的研究』 春秋社 xuân thu xã, 1987年。

- Phước tỉnh văn nhã 福井文雅 『般若心経の総合的研究:歴史・社会・資料』 春秋社 xuân thu xã, 2000年。

- Dũng tỉnh hòa 涌井和 『般若心経を梵語原典で読んでみる -サンスクリット入門-』 明日香出版社minh nhật hương xuất bản xã, 2002年。

- Sơn trung nguyên 山中元 『サンスクリット文法入門 -般若心経、観音経、真言を梵字で読む-』 国際語学社 quốc tế ngữ học xã, 2004年。

- Cung phản hựu hồng宮坂宥洪 『真釈般若心経』 角川ソフィア文庫、2004年。

- Phước tỉnh văn nhã 福井文雅 『ヨーロッパの東方学と般若心経研究の歴史』 五曜書房ngũ diệu thư phòng, 2008年。

- Nguyên điền hòa tông 原田和宗 『「般若心経」の成立史論 大乗仏教と密教の交差路』 大蔵出版 Đại tạng xuất bản, 2010年。

7/BẢN TIẾNG VIỆT

Hiện tại, có khá nhiều bản dịch Việt ngữ Tâm Kinh Bát-nhã, sơ bộ có khoảng 30 bản dịch sang tiếng Việt dạng văn xuôi, văn vần, thơ v.v..

Xin giới thiệu một số bản dịch mang tính học thuậtvăn chương có thể dùng để tham khảo như sau:

-Trưởng lão Thích Trí ThủTâm kinh Bát-nhã Ba-la-mật dịch và chú giải, Quảng Hương Già Lam ấn hành, 1982.

-Thiền sư Thích Nhất HạnhKinh tinh yếu Bát-nhã, dịch và in trong Nhật tụng thiền môn, 2000. Ngoài ra còn viết kèm theo bản luận giảng Trái Tim Mặt Trời.

-Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, dịch và chú giải bản Anh ngữ của D.T. Suzuki trong Thiền Luận tập 3, sau in lạiThiền và Bát-nhã, viết công phu phần dẫn vào tâm kinh, dịch đầy đủ các lược bản và quảng bản Hán ngữ Tâm kinh, phụ lục các văn bản liên quan.

-Thích Phước Nguyên, Kinh Tinh Hoa Trí Tuệ Siêu Việt Toàn Hảo, dịch từ nguyên bản Sanskrit, so sánh với các truyền bản Sanskrit, đối chiếu bản Tây Tạng, và dịch các bản Hán ngữ quảng bản và lược bản v.v..

Ngoài ra còn các bản dịch Hán ngữ như của Trưởng lão Thanh Từ, Hòa Thượng Từ Thông, Chánh Trí Mai Thọ Truyền, v.v.. dịch từ bản La-thập.

Đa phần các bản Việt dịch từ Hán ngữ do ảnh hưởng cấu trúc ngữ pháp Hán, và chưa có điều kiện tham khảo các thư tịch tiếng Phạn, nên không tránh khỏi sự ngắt câu sai lệch, hay hiểu sai nội hàm của từ, nên dẫn đến việc hiểu lầm những ý nghĩa của Tâm kinh, điều này đã được Thượng tọa Tuệ Sỹ ghi nhận và phân tích cặn kẽ ở trong phần dẫn vào tâm kinh của tập Thiền và Bát-nhã, ở đây không cần thiết phải lập lại. Những điều cần thiết khác sẽ được trình bày ở các phần tiếp sau của tập chú giải.



[1] Siddam, phát triển từ lối Brahmin style cổ xưa. Viết từ phải sang trái. Được sử dụng ở miền Bắc Ấn vào đầu thế kỷ I, và ở Nam Ấn khoảng thế kỷ IV-V.  Từ Bắc Ấn, thư pháp này biến dạng theo lối gupta (gypta style) và truyền vào Trung quốcNhật Bản. Lối Nam Ấn được truyền vào Kucha và Khotan. Đến thế kỷ thứ XI, Devanagari mới xuất hiện.

[2] Xem bản dịch Việt từ bản Sanskrit của Phước Nguyên.

[3] Prajñāpāramitāhṛdayasūtram, Vaidya, Dr. P.L ed., Buddhist Sanskrit Texts No. 17 Mahāyāna-sūtra-saṁgrahaḥ (part 1). Darbhanga :The Mithila Institute, 1961.

[4] Benveniste, Texts sogdiens, Mission Pelliot en Asie centrale: Série in-Quarto, 3. Paris, 1940, 142-143. Cf. David A. Utz, A Survey of Buddhist Sogdian Studies (Bibliographia Philologica Buddhica Series Minor III), Tokyo: The reiyukai Library 1980.

[5]T50n2053, tr.224b6: Đại Từ ân tự Tam tạng Pháp sư truyện大慈恩寺三藏法師傳, quyển 1.

[6] T8n256 唐梵飜對字音般若波羅蜜多心經(并序 [燉煌出 S. 700])述序大興善寺石璧上錄出慈恩和尚奉Tựa bản phiên âm Phạn-Hán của Tâm kinh Bát-nhã, lược bản, khắc trên vách đá chùa Đại hưng thiện.

[7] T55n2167, tr. 1085c25.

[8] T55n2168B, tr. 1090b05.

[9] T.12, tr. 44a 45b.

[10] Peking:Rgyud (na)39b-41a 奈塘版:Śer-phyin sna-tshogs (ka)262b-264aRgyud (da)92a-94a 德格版:Śes-phyin (ka)144b-146aRgyud-ḥbum (na)94b-95b 拉薩版:Śer-phyin sna-tshogs (ka)259a-261aRgyud (tha)45a-47a 卓尼版:Rgyud (na)43b-45a.

[11] T55n2145, tr.31b9, ibid., tr.31b10:出三藏記集錄下卷第四 釋僧祐撰 新集續撰 失譯 雜 經錄第一: 摩訶般若波羅蜜神咒一卷, 般若波羅蜜神咒一卷(異本).

[12]  T49n2034, tr. 55c1.

[13] Ibid., tr. T49n2034, tr. 58b9: 摩訶般若波羅蜜咒經一卷(見寶唱錄或直云般若波羅蜜咒經)

[14] T8n223, tr. 223a9-223a25 摩訶般若波羅蜜經卷第一習應品第三. Cf.  T25n1509, tr. 327c11-328a18: Đại trí độ, quyển 36, giải thích phẩm 3 “Tập tương ưng” 大智度論釋習相應品第三 (卷三十六)

[15] T7n220, tr. 14a07-14a2: Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, Huyền Tráng, quyển 403, phần II, phẩm 3 “Quán chiếu”;大般若波羅蜜多經卷第四百三 第二分觀照品第三之二.

[16] Cf. Edward Conze (1948) ‘Text, Sources, and Bibliography of the Prajñāpāramitā-hṛdaya.’ Journal of the Royal Asiatic Society, April 80(1-2): 33-51; (2000) Prajnaparamita Literature Munshiram Manoharlal Publishers (originally published 1960 by Mouton & Co.); (1967) ‘The Prajñāpāramitā-Hṛdaya Sūtra’ in Thirty Years of Buddhist Studies: Selected Essays, Bruno Cassirer. p. 147-167; Buddhist Wisdom Books: Containing the "Diamond Sutra" and the "Heart Sutra" (New edition). Thorsons, 1975.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14638)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14618)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14054)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14937)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16553)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29872)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16213)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15530)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14881)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14871)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17881)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15571)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38661)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26722)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39651)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50749)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38729)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35038)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18302)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16466)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42393)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39236)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35610)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17455)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46510)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17148)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28492)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18991)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17588)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17107)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17542)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16531)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16878)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30832)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16934)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18501)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18452)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17376)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18166)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17072)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23488)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16987)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17459)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17667)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17056)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15736)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18031)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17410)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17199)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29514)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27716)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18164)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16107)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15361)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23029)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14834)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55108)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14203)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13244)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14174)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant