Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Ấn

27 Tháng Ba 201719:28(Xem: 7460)
Pháp Ấn
PHÁP ẤN 

Thích Nguyên Hùng

Pháp Ấn


Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn. Ấn còn có nghĩa là chân thật, bất động, bất biến, như ấn tín của quốc vương. Pháp ấn là dấu ấn của Chánh pháp, là dấu hiệu đặc trưng để nhận biết Phật pháp, nhưng cũng có thể là chỉ cho giáo pháp cô đọng, tinh yếu, cốt tủy, tức là pháp yếu

Sau này, nhiều trăm năm sau Phật Niết-bàn, thuật ngữ Pháp ấn được dùng để chỉ cho kinh điển do Phật thuyết, ngược lại, kinh điển nào có nội dung tư tưởng trái ngược với pháp ấn thì được coi là kinh điển không do Phật thuyết.

Những bản kinh sau đây sẽ cho chúng ta thấy khái niệm pháp ấn được Đức Thế Tôn dùng để giảng dạy những giáo lý nhiệm mầu, thâm sâu; những pháp hành căn bản để thành tựu giải thoát.

Thánh pháp ấn là khuôn dấu về Chánh pháp của bậc Thánh, pháp ấn của bậc Thánh, hay pháp này chính là pháp hành, pháp yếu căn bản đi đến thành tựu Thánh quả. Kinh ghi: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là Thánh pháp ấn? Thánh pháp ấn này nếu được tu tập sẽ đưa đến tri kiến thanh tịnh. Giả sử vị Tỳ-kheo ở chỗ nhàn cư, hoặc ngồi dưới gốc cây, chốn không nhàn, quán sát nhận biết rõ sắc là vô thường, thấy sắc vốn không có. Đã nhận biếtvô thường, hiểu rõ đến chỗ Không, Vô đều là hình dung biến hóa nhanh chóng, vô ngã, vô dục, cho nên tâm liền ngưng nghỉ, tự nhiên thanh tịnhđược giải thoát.”1

Thánh pháp ấn ở đây được nhận diệnvô thường, không, vô ngã và Niết-bàn.

Tự tánh không

Pháp ấn là pháp của Phật, siêu việt, không thể nghĩ bàn, tri kiến không thể đạt tới. Kinh ghi: “Tự tánh Không, không có sở hữu, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, thoát ly mọi tri kiến. Tại sao? Vì tánh Không, không có xứ sở, không có sắc tướng, không có tưởng, nó vốn không sanh, không phải chỗ mà tri kiếnthể đạt tới, thoát ly mọi vướng mắc; vì do thoát ly mọi vướng mắc, nên hết thảy pháp nó đều dung nhiếp, an trú tri kiến bình đẳng, tức là tri kiến chân thực. Tỳ-kheo nên biết, tánh Không là như vậy, các pháp cũng là như vậy, đó gọi là pháp ấn.2

Ở đây, tánh Khôngpháp ấn.

Tam giải thoát môn

Có khi Đức Phật nói ba cánh cửa giải thoátpháp ấn. Kinh ghi: “Pháp ấn này chính là ba giải thoát môn, là pháp căn bản của chư Phật, là đôi mắt của chư Phật, đó là chỗ quy thú của chư Phật.”3

Rồi Đức Phật giải thích, nếu ai tu tập, quán sát đúng như thật rằng: “Sắc là khổ, là không, là vô thường, nên sinh khởi sự nhàm chánthoát ly chúng, an trú tri kiến bình đẳng. Cũng giống như thế, quán sát: thọ, tưởng, hành và thức, là khổ, là không, nên sinh khởi sự nhàm chánthoát ly chúng, an trú tri kiến bình đẳng.

“Này các Tỳ-kheo! Các uẩn vốn là không tự tánh, do tâm mà có sinh, khi tâm pháp diệt tận rồi, thì các uẩn không còn tác khởi.

“Thấu suốt rõ ràng như thế, tức là trực tiếp giải thoát, đã trực tiếp giải thoát rồi, thì thoát ly mọi tri kiến. Đây gọi là Không giải thoát môn.

“Lại nữa, an trụ ở trong tam-muội, quán chiếu các sắc cảnh, hết thảy chúng đều diệt tận, thoát ly mọi ấn tượng. Cũng vậy, với thanh, hương, vị, xúc và pháp, cũng đều diệt tận, thoát ly mọi ấn tượng; quán sát như vậy, gọi là Vô tưởng giải thoát môn. Vào cửa giải thoát này rồi, liền thành tựu được tri kiến thanh tịnh. Do vì có sự thanh tịnh đó, nên tham, sân và si hết thảy chúng đều diệt tận. Những thứ ấy, đã diệt tận rồi, thì liền an trú tri kiến bình đẳng.

“Đã an trú vào tri kiến này rồi, tức là thoát ly kiến về ngã cùng với kiến về ngã sở, tức liền thấu suốt rõ ràng mọi kiến, không sở sinh, không có chỗ y chỉ.

“Lại nữa, đã thoát ly kiến về ngã rồi, tức không còn kiến, văn, giác và tri.

Tại sao vậy? Vì do nhân duyên, mà các thức sinh khởi, thì tức nhân duyên đó, cùng với thức được sinh ra, hết thảy chúng đều vô thường. Do vì nó vô thường, cho nên thức bất khả đắc. Thức uẩn đã không, thì không có chỗ tạo tác. Gọi là Vô tác giải thoát môn.”4

Bốn pháp thù thắng

Một thời, Đức Thế Tôn du hóa ở cung Hải Long vương cùng với 1.250 vị Tỳ-kheo, và số đông các hàng Đại Bồ-tát. Bấy giờ, Long vương Sāgara bạch với Thế Tôn“Kính bạch Thế Tôn! Có pháp gì mà người thọ trì chút ít lại được phước nhiều không?”

Khi ấy, Phật bảo Hải long vương“Có bốn pháp thù thắng, nếu ai thọ trì, đọc tụng, hiểu nghĩa, thì dụng công tuy ít mà được phước rất nhiều, so với công đức của người đọc tụng tám vạn bốn ngàn pháp tạng không khác. Bốn pháp đó là gì? Là thường tư  duy: các hành vô thường, tất cả đều khổ, các pháp vô ngã và chỉ có Niết-bàn là an lạc.Long vương nên biết, đây là bốn pháp thù thắng, hàng Đại Bồ-tát Vô tận pháp trí, sớm chứng vô sanh,  mau đến viên tịch, là vì họ thường tư duy, nghiền ngẫm bốn pháp này!5

Vô thường, khổ, vô ngã, Niết-bàn được cho là bốn pháp ấn!

Ba pháp ấn

Một thời, sau khi Thế Tôn vào Niết-bàn không bao lâu, Trưởng lão Channo đi khắp nơi để thỉnh cầu các Tỳ-kheo chỉ dạy, rằng “xin chỉ dạy tôi, nói pháp cho tôi, để cho tôi biết pháp, thấy pháp và tôi có thể như vậy mà quán sát pháp.”

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nói với Channo: “Sắc là vô thường. Thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Tất cả các hành đều vô thường. Tất cả các pháp đều vô ngã. Niết-bàn là tịch diệt”. 6

Chữ ‘hành’ ở đây chỉ cho tất cả mọi hiện tượng sinh diệt, biến hóa; nó đồng nghĩa với từ ‘hữu vi’. Tất cả mọi hiện tượng chưa từng dừng nghỉ quá trình chuyển động dù chỉ trong nháy mắt, chúng luôn luôn thay đổi, sinh diệtbiến hóa, cho nên nói ‘chư hành vô thường’: tất cả mọi hiện tượng đều luôn thay đổi, không thường hằng bất biến. Hiện tượng ở đây bao hàm cả vật chất lẫn tinh thần, chúng biến đổi liên tục không gián đoạn.

Vô thường, anitya hoặc anityatā, có nghĩa là tất cả các pháp hữu vithế gian không có gì tồn tại mãi mãi, cái gì cũng thay đổi, biến hóa, sanh diệt không dừng. Tất cả các pháp hữu vi đều do nhân duyên mà sanh và đều có bốn tướng trạng: sanh, trụ, dị, diệt, gọi là tứ tướng vô thường. Bốn tướng này sanh diệt trong từng sát-na, sanh đó liền diệt đó.

Luận Đại trí độ, quyển 43, nói vô thường có hai loại, là niệm niệm vô thườngtương tục vô thường.

- Niệm niệm vô thường: Trong mỗi niệm, trong mỗi sát-na, các pháp hữu vi trải qua bốn tướng trạng sanh, trụ, dị, diệt; niệm này vừa sanh liền diệt, vừa diệt liền sanh, liên tục không gián đoạn.

- Tương tục vô thường: Vô thường tiếp nối vô thường tạo thành một dòng chảy vô thường tương tục: sanh, trụ, dị, diệt, rồi lại sanh, trụ, dị, diệt…

Luận Biện trung biên, quyển trung, phân tích vô thường thành ba loại: vô tính vô thường, sanh diệt vô thường và cấu tịnh vô thường.

- Vô tính vô thường: Còn gọi là vô vật vô thường. Tính biến kế sở chấp (các pháp vốn không có tự tính, do chúng sanh suy diễn, vọng tưởng [biến kế] rồi chấp vào đó mà cho là có tự tính), vì tính của nó là thường Không. Thành duy thức luận thuật ký giải thích: Vì thể tính thường không, tức là cái tính ban đầu, mà luận Biện trung biên gọi là Vô hữu vật (không có vật gì cả), thật sự thì không có gì vô thường cả (vì không có vật thì làm gì có vật vô thường?), cho nên nói các hành vô thường chỉ là một cách nói tạm thời.

- Sanh diệt vô thường: Còn gọi là khởi tận vô thường. Các pháp nương vào nhau mà sanh khởi, nương vào cái khác mà sinh khởi (y tha khởi), tức là đều do duyên mà sanh, cho nên nó cũng sẽ do duyên mà diệt tận, vì vậy mà gọi là sanh diệt vô thường.

- Cấu tịnh vô thường: Còn gọi là hữu cấu vô cấu vô thường. Các pháp viên thành thật cũng chuyển biến vô thường, bản chất của nó không có dơ hay sạch. Nếu ở trong dòng sanh tử mà nói thì gọi là dơ, nếu cắt đứt dòng sanh tử rồi thì gọi là tịnh, cho nên cấu hay tịnh đều vô thường.

Ngoài ra, luận Thuận trung, quyển hạ, cũng nói vô thường có ba loại là niệm niệm hoại diệt vô thường, hòa hợp ly tán vô thườngtất cánh như thị vô thườngĐại thừa nghĩa chương, ở quyển 2 và quyển 18 cũng đề xuất ba loại vô thườngphân đoạn vô thường, niệm vô thườngtự tánh bất thành vô thường. Về mặt tên gọi vô thường trong hai bộ luận vừa nêu khác nhau nhưng ý nghĩa thì tương đồng.

Luận Hiển dương thánh giáo, quyển 14 thì đề xuất sáu loại và tám loại vô thường. Sáu loại vô thường là:

a) Vô tính vô thường: Nghĩa là tất cả các pháp tính vốn không, là tính biến kế, chứ không phải thật có, như hoa đốm giữa hư không, tính của nó là thường không (thường không có thật).

b) Thất hoại vô thường: Các pháp đều hoại diệt và biến mất vô thường.

c) Chuyển dị vô thường: Chuyển dị là thay đổi thành cái khác, biến thành cái khác. Các pháp thường đổi khác như thế, giống như đứa bé trong bào thai luôn chuyển đổi trong suốt mười tháng hoài thai thì mới lớn lên thành người được.

d) Biệt ly vô thường: Có hợp có tan.

e) Đắc vô thường: Hiện tại thọ cái quả vô thường là do cái nhân vô thường đã tạo.

f) Đương hữu vô thường: Các pháp đang hiện hữu nhưng thực chất đang chuyển hóa liên tục qua bốn tướng trạng thành, trụ, hoại, không.

Tám loại vô thường là: 1. Sát-na vô thường, 2. Tương tục vô thường, 3. Bệnh vô thường, 4. Lão vô thường, 5. Tử vô thường, 6. Tâm vô thường, 7. Khí vô thường, 8. Thọ dụng vô thường. Trong đó, sát-na và tương tục là hai loại vô thường có mặt khắp mọi nơi; bệnh, lão, tử là ba loại vô thường ở nơi sắc thân; tâm vô thường là chỉ cho tâm thức luôn thay đổi; khí và thọ dụng là hai loại vô thường ở nơi sắc bên ngoài thân.

Liên quan đến tướng trạng vô thường, các kinh luận phần nhiều dùng những hình ảnh để diễn tả, như kinh Kim cương bát-nhã, dùng hình ảnh giấc mộng, ảo thuật, bọt nước, cái bóng, hạt sương, tia lửa điện để thuyết minh tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, không thật.

Đại tạng pháp sốquyển 46, thì căn cứ vào Tông cảnh lục liệt kê tám thí dụ là nước xuôi về đông, mặt trời xế bóng, chớp lòe đá lửa, bóng câu qua khe cửa, đèn chong trước gió, sương đầu ngọn cỏ, cây khô vách núi, chớp lòe trước mắt để chỉ tính chất vô thường của các pháp.

A-tỳ-đạt-ma tạp luận, quyển 6, cũng nêu các tướng trạng vô thường, tóm lược có 12 loại, đó là tướng không có thật, tướng hoại diệt, tướng biến dị, tướng biệt ly, tướng hiện tại, tướng tự nhiên, tướng sát-na, tướng tương tục, tướng bệnh yếu, tướng tâm hành mỗi mỗi thay đổi, tướng hưng suy, tướng thế gian thành rồi hoại.

Ngày nay, khoa học tự nhiên dường như đã làm sáng tỏ thêm khái niệm vô thường của Phật giáo. Hồi trước, người ta cho rằng, nguyên tử, đơn vị vật chất nhỏ nhất, là bất biến, không thay đổi; nhưng ngày nay người ta đã chứng minh được nguyên tử cũng thay đổi, không phải là bất biến, và cũng không phải là vật chất nhỏ nhất. Bên trong hạt nguyên tử còn có điện tử, trung tử… chúng có thể tính luôn luôn vận động kết hợp mà thành. Vật chất nhỏ bé nhất có thể nói là lạp tử, nhưng lạp tử cũng không phải là một vật chất cố định, bất biến; nó cũng thường xuyên biến hóa. Những khám phá mới của khoa học này ngày nay ai cũng biết. Vật chất hình thành từ những nguyên tử phức hợp, từ vật chất nhỏ nhất cho đến vật chất cực lớn như thiên thể vũ trụ, đều hình thành từ những hạt cơ bản có tính chất vật lý, hóa học biến hóa không dừng. Sự khám phá khoa học này đã thêm một lần nữa chứng minh giáo lý ‘chư hành vô thường’ của Phật giáo luôn là chân lý.

Tuy nhiên, Phật giáo không dựa vào khoa học để tồn tại! Phật giáo nhận thức các pháp vô thường không phải bằng phương pháp phân tích của khoa học mà bằng thực nghiệm hiện lượng hay trực giác chứng ngộ.

Chữ ‘pháp’ trong ‘chư pháp’ cùng một ý nghĩa với ‘chư hành’, đều chỉ cho tất cả mọi hiện tượng.

Vô ngã là không có cái ngã. Khái niệm về ngã, trong tư tưởng triết họctôn giáo của Ấn Độ cổ đại thường chỉ cho bản thể hoặc thật thể vĩnh hằng, không bị sanh diệt, biến hóa. Phật giáo cho rằng, cái thật thể hay bản thể nằm ngoài kinh nghiệm nhận thức của con người, nó có tồn tại hay không chúng ta không có phương pháp nào để xác định nhận biết, cho nên gọi nó là vô ký, và do đó Đức Phật khuyên các Tỳ-kheo không nên tìm hiểu về vấn đề này.

Dưới một ý nghĩa nào đó, Phật giáo không nói ‘ngã’ không có thật thể, nhưng Phật giáo nói, ở trong thế giới của chúng ta, tất cả mọi pháp đều vô ngã. Do đó, khi nói ‘chư pháp vô ngã’ có nghĩa là tất cả mọi sự vật đều không có ngã.

Đại đa số quần chúng đều dễ dàng tiếp nhận ý nghĩa ‘chư hành vô thường’, nhưng đối với ý nghĩa ‘chư pháp vô ngã’ thì ngoại đạo không thể chấp nhận được, cho nên, giáo lý ‘chư pháp vô ngã’ trở thành giáo lý duy nhất của Phật giáo.

Thuở Phật còn tại thế, các tôn giáo bấy giờ đều cho rằng tất cả mọi sự vật đều có bản thể tồn tại vĩnh viễn bất sanh bất diệt. Bản thể đó gọi là Ngã (atman). Tôn giáo bấy giờ khi đề cập đến Phạm, đề cập đến Ngã, tức là đều chỉ cho cái bản thể. Bản thể hay thật thể của vũ trụ gọi là Phạm (brahaman), còn bản thể hay thật thể của cá nhân thì gọi là Ngã (atman).

Phật giáo cho rằng, cái bản thể đó con người không thể nhận thức được, cũng không có phương pháp gì để chứng minh nó có tồn tại hay không, cho nên Phật giáo gọi là vô ký, tức không xác định. Hơn nữa, cái bản thể hay thật thể này nó không có quan hệ gì đến hiện tượng giới và thế giới của chúng ta, nó cũng không có lợi ích gì đến sự nghiệp tu hành giải thoát, do đó không cần phải đem nó ra đặt vấn đề để nghiên cứu. Cái thấy của Phật giáo là tất cả mọi hiện tượng giới đều không có Ngã.

Khi Phật giáo Đại thừa hưng khởi, thuật ngữ Không (śūnya) và Không tính (śūnyatā) được sử dụng rộng rãi để nói đến Vô ngã. Vô ngã và Không là đồng nghĩa.

Thiền tông Trung Hoa cũng sử dụng từ ‘Vô’ để chỉ cho ý nghĩa Vô ngã. Cả hai thuật ngữ ‘Không’ và ‘Vô’ đều không mang ý nghĩa hay liên quan gì đến khái niệm hư vô.

Phật giáo không đề cập đến vấn đề bản thể luận. Phật giáo nói đến Không và Vô, nhưng nó không mang ý nghĩa hay liên quan gì đến bản thể luận, mà nó phản ảnh sự thật trạng thái của hiện tượng giới là Không và Vô. Vô ngãtừ ngữ biểu thị trạng thái không tồn tại một cái ngã của tất cả mọi hiện tượng.

Tất cả mọi hiện tượng đều Vô ngã và Không tức là chúng không có tự tính (niḥs-vabhāva), không có tính cố định, luôn vô thường; không tự sanh ra, không tự có mặt.

Tất cả các pháp đều không tự sanh ra và cũng không tự nó mất đi. Nghĩa là, các pháp không phải là bất sanh, bất diệt, các pháp khôngthực thể cố định. Khái niệm ‘cố định’ là chỉ cho sự tồn tại độc lập. Nếu con người có tính cố định thì người này không liên quan đến người khác. Nhưng trên thực tế, xã hội nhân sinh đều có mối quan hệ mật thiết với nhau, không có cái gì tồn tại tuyệt đối, đơn độc, riêng lẻ. Tất cả mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong một mối tương quan, liên hệ với thời gian, không gian và tương tác lẫn nhau.

Xã hội, nhân sinh cũng không có hoạt động cố định, tất cả đều tùy thuộc vào những điều kiện nhân duyênbiến hóa, thay đổi.

Trên thực tế, Vô ngã và Không có thể phân ra làm hai phương diện để nói, đó là Vô sở đắc và Vô quái ngại.

- Vô sở đắc (aprāpti), tức là không thể nắm bắt được (không chấp trước). Con người có một ý niệm cho rằng có cái ta và cái của ta, và còn có người nghĩ rằng những cái đó là cố định, trường tồn, và luôn mong nó cố định bất biến. Nhưng sự thật, không có cái gì để gọi là ta và của ta, bởi vì tất cả đều Vô ngã, đều là Không.

- Vô quái ngại (anāvaraṇa), tức là không còn chướng ngại, đạt được sự tự do tự tại. Đây là trạng thái đạt được khi tu tập thành công Vô sở đắc, không còn chấp trước. Không chấp trước thì có được khả năng hoạt động tự do tự tại mà vẫn đúng như pháp. Khổng Tử cũng có nói là “Tùy theo chỗ ước muốn của tâm mà vẫn không ra ngoài khuôn phép”. Câu nói này cũng có ý nghĩa như trong đạo Phật, một khi đã Vô ngã, đã Không rồi thì tự do tự tại, không có gì có thể gây chướng ngại. Lý tưởng của Phật giáohoàn thành nhân cách, đạt đến một cuộc sống thường nhật thong dong tự tại. Đức Phật dạo chơi trong Tam giới chính là đạt được cảnh giớichướng ngại này.

Vô ngã và Không là đặt bản thân mình vào trong trạng thái Không. Do đó, ở trong cái trạng thái Không ấy không có một cái Ta làm trung tâm cho mọi tham dục, không có cái Ta nhiễu hại, dọa nạt người khác, ganh ghét, nịnh hót, khinh miệt, oán hận hay luyến mộ người khác… Để thân tâm mình vào trạng thái Không là luôn luôn đứng ở lập trường của người khác, đứng ở lập trường của toàn thể, để rồi từ đó suy nghĩ chín chắn rồi sau đó mới hành động, và hành động mà không làm nhiễu loạn người khác. Đồng thời, đối với người và vật luôn luôn ôm ấp tấm lòng từ bi thương xót, không có sự đối lập giữa ta và người mà luôn luôn rộng rãi bao dung người khác. Vô ngã, như vậy, cuối cùng trở thành Đại ngã chăng?!

Vô ngã là cái nhìn chính xácnhư thật về xã hộinhân sinh. Có thể nói, Vô ngã đồng nghĩa với Duyên khởiChư pháp thật tướng (tướng chân thật của các pháp).

Niết-bàn, nirvāṇa, trong ngôn ngữ Ấn Độ bao gồm những ý nghĩa: lửa tắt, hết, chết, hoàn toàn yên lặng, yên ổn, vắng lặng hoàn toàn, chết và đi qua chỗ khác. Ngài Huyền Tráng dịch là viên tịch.

Người Ấn Độ dùng từ này để chỉ cho ngọn lửa bị tắt ngấm, hoặc bị gió thổi cho tắt; chẳng hạn, khi ngọn đèn bị tắt thì gọi là ‘đăng diệm Niết-bàn.’7

Các tôn giáo tại Ấn Độ đã sớm sử dụng từ ngữ này để chỉ cho cảnh giới lý tưởng tối cao. Luận Đại Tỳ-bà-sa liệt kê dị giáo có tới năm loại ‘hiện pháp Niết-bàn’, tức họ cho rằng sự hưởng thụ khoái lạc năm dụcthế gianđạt được bốn thiền định là Niết-bàn.8

Bà-la-môn giáo lấy sự tu trì đạt đến cảnh giới Phạm - Ngã hợp nhất, hoặc sau khi chết sanh lên Phạm thiên là chứng ‘Phạm Niết-bàn’.

Từ đó, chúng ta biết rằng, nguyên thủy từ ‘Niết-bàn’ không phải là danh từ riêng biệt của Phật giáo. Tuy nhiên, khi danh từ ‘Niết-bàn’ xuất hiện trong kinh điển Phật giáo thì nó đã mang nội dung ý nghĩa mới; và cho đến ngày nay thì từ ‘Niết-bàn’ đã trở thành một thuật ngữ đặc hữu và trang nghiêm của Phật giáo.

Trong kinh Đại bát-niết-bàn liệt kê Niết-bàn có 25 loại9; luận Tứ đế nêu Niết-bàn có 66 tên gọi khác nhau.10 Điều này cho thấy trạng thái an lạc, hạnh phúc có rất nhiều cấp độ khác nhau trong lộ trình đoạn hoặc, tu chứng.

Trong kinh luận Hán tạng, người ta phải dùng các từ vô vi, chân đế, bỉ ngạn, vô hoại, vô động, vô ưu, vô cấu, bất sinh, giải thoát, vô úy, an ổn, vô thượng, cát tường, vô hý luận, vô tránh… cho đến các từ chân như, thật tướng, Như Lai tạng, pháp thân v.v… để chỉ trạng thái hoặc tính chất của Niết-bàn.

quan niệm cho rằng, chết là Niết-bàn, như khi nói ‘nhập Niết-bàn’, nghĩa là một vị Thánh giả trở lên từ bỏ xác thân này. Đó là một quan niệm sai lầm! Nếu nói rằng chết là Niết-bàn thì khi Đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo dưới cội cây bồ-đề, ngay sau khi thành đạo, chứng Niết-bàn Ngài đã chết rồi! Cho nên, dưới cây bồ-đề Đức Phật chứng Niết-bàn và cái chết không liên quan gì nhau hết. Nên hiểu, như kinh Thắng Man đã nói, “Người chứng đắc a-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề tức là chứng đắc Niết-bàn.11

Các nhà phiên dịch khi diễn tả cái chết của một Thánh giả thì dịch là ‘bát-niết-bàn’ (parinirvāna). Chữ ‘bát’ (pari) có nghĩa là ‘hoàn toàn không còn sót lại’, vì vậy, bát-niết-bàn có nghĩa là thân và tâm cuối cùng của một vị A-la-hán đã hoàn toàn diệt hết, tức vô dư niết-bàn (Niết-bàn hoàn toàn, không còn sót lại gì hết). Hiển nhiên, trạng thái Niết-bàn này so với Đức Phật khi ngồi dưới cội cây bồ-đề hoặc một vị Thanh văn đang còn sống chứng đắc ‘hiện pháp Niết-bàn’ có sự khác biệt.

Niết-bàn có nghĩa là ‘diệt’. Chữ ‘diệt’ này có nghĩa là diệt hết mọi phiền não, tai họa. Kinh Tạp A-hàm nói : “Tham dục đã được đoạn trừ vĩnh viễn, sân khuể đã được đoạn trừ vĩnh viễn, ngu si đã được đoạn trừ vĩnh viễn, tất cả mọi phiền não đã được đoạn trừ vĩnh viễn, đó là Niết-bàn.”12 Kinh Đại bát-niết-bàn cũng nói : “Hết khổ đau nghĩa là Niết-bàn.”13 Đó là thuyết minh chữ ‘diệt’ có nghĩa là tiêu diệt phiền não và khổ đau; phiền não và khổ đau tiêu diệt thì xuất hiện cảnh giới tịch tịnh, an ổn, khoái lạc, gọi là Niết-bàn tịch tịnh.

Nam truyền và Bắc truyền đều có kinh Niết-bàn, và cả hai truyền thống đều rất coi trọng bài kệ trong kinh Niết-bàn là ‘chư hành vô thường, thị sinh diệt pháp, sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc’. Tịch diệtđời sống tràn đầy pháp hỷ, không chỉ Thanh văn mà ngay cả tinh thần của Bồ-tát cũng được nuôi dưỡng đời sống bằng pháp hỷ tịch diệt.

Câu-xá luận dùng hình ảnh ngọn lửa tắt ngấm để dụ cho trạng thái Niết-bàn mà Đức Phật chứng được với tâm giải thoát cũng như vậy. Luận nói: “Giống như ngọn lửa tắt ngấm (ngọn lửa Niết-bàn), sự giải thoát tâm cũng như vậy. Có nghĩa là, giống như sự lụn tàn của ngọn lửa chỉ là sự đi qua của ngọn lửa mà không phải sự đi qua của một thực thể nào khác, sự giải thoát của tâm Thế Tôn cũng vậy, chỉ là sự diệt tận các uẩn chứ không có gì khác.14

Kinh Niết-bàn của truyền thống Bắc truyền hình như đã phủ định ý nghĩa trên của Câu- và cho rằng: “Nếu nói Như Lai nhập Niết-bàn giống như củi hết lửa tắt thì nói như vậy là bất liễu nghĩa; còn nói Như Lai nhập vào pháp tính thì là liễu nghĩa.” Kinh này còn nói: “Nếu dầu đã cạn hết thì ánh đèn cũng tắt theo, ánh đèn đã tắt là dụ cho phiền não đã diệt hết, ánh đèn tuy đã tắt nhưng cây đèn thì vẫn còn; Như Lai cũng như vậy, phiền não tuy đã diệt hết nhưng pháp thân thì vẫn thường tại.”15

Kinh Niết-bàn của truyền thống Bắc truyền là một tập hợp vô cùng phong phú về ý nghĩa của Niết-bàn, như cho rằng Niết-bàn có đầy đủ ba đức tính là pháp thân, bát-nhã, giải thoát; hoặc có đầy đủ bốn đức tính thường, lạc, ngã, tịnh; hoặc có đầy đủ tám công đức thường, hằng, an, thanh lương, bất lão, bất tử, vô cấu, khoái lạc, giống như tám hương vị của đề hồ. Ý nghĩa của Niết-bàn như vậy cho thấy bản thể của Niết-bàn không hề rơi vào trạng thái hư vô, tịch diệt, ngược lại, Niết-bàn lấy thật tướng hoặc pháp thân làm bản thể và có tác dụng làm cho sinh mạng vô cùng tận.

Trên phương diện lịch sử, chúng ta nhận thấy rằng, thời kỳ Phật giáo bộ phái, Niết-bàn được phân thành hai loại, Hữu dư Niết-bànVô dư Niết-bàn. Hữu dư Niết-bàn nói rằng, tuy đã đoạn tuyệt tất cả mọi phiền não để siêu thoát sanh tử, nhưng vẫn còn chịu quả báo của nghiệp quá khứ (tức chỉ cho nhục thể), nên chưa thể nói là Niết-bàn hoàn toàn. Ở một phương diện khác, Vô dư Niết-bàn là đã đoạn tuyệt tất cả mọi phiền não và cũng đã đoạn tuyệt nhục thể, không còn dư y, tức là Niết-bàn hoàn toàn, như Phật nhập diệt. Bát-niết-bàn là chỉ cho Niết-bàn hoàn toàn.

Đến thời kỳ Phật giáo phát triển, Niết-bàn được nhận thức thêm là Tự tính thanh tịnh Niết-bàn và Vô trụ xứ Niết-bàn, thành ra có bốn loại Niết-bàn.

Tâm tính tức là Phật tính, xưa nay vốn thanh tịnh, có đủ các đức tính của Niết-bàn là thường, lạc, ngã, tịnh. Phật tính này chính là Tự tính thanh tịnh Niết-bàn. Vô trú xứ Niết-bàn là chỉ cho ‘nhờ vào đại trí mà không trụ ở trong sanh tử, nhờ đại bi mà không trụ nơi Niết-bàn’; Vô trú xứ Niết-bàn cũng có nghĩa là Niết-bàn chân thật, không trú nơi sanh tử, không trụ nơi Niết-bàn, không chấp trước, không trú trước. Trạng thái Niết-bàn của Đức Phật nhất định cũng giống như vậy.

Kết luận

Trong rất nhiều kinh, Đức Phật thường hỏi các Tỳ-kheo:

- Này các Tỳ-kheo! Năm uẩnthường hay vô thường?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

- Bạch Đức Thế Tôn, là vô thường.

- Nếu là vô thường, là pháp thay đổi thì có ngã và ngã sở không?

- Không có ngã và ngã sở.

Đức Phật liền dạy:

- Này các Tỳ-kheo! Hãy quán sát như vậy! Quán sát các pháp vô thường, vô ngã liền đạt được giải thoát.

Căn cứ đoạn kinh văn này chúng ta có thể thấy ba pháp ấn liên quannhất quán với nhau. Trong ba pháp ấn, Niết-bàn tịch tịnh tức chính là giải thoát, cũng chính là không. Đức Phật từng dạy rằng: “Các hành đều là Không. Không thường, luôn thay đổi, không có ngã và ngã sở. Tính của các pháp là như vậy”.

Bản tính của tất cả các pháp hữu vikhông tịch. Không tịch cho nên vô thường, vô ngã; và vì vậy mà có thể thực hiện Niết-bàn. Ý nghĩa này được khai triển từ ý nghĩa không trong duyên khởi. Cho nên, trong kinh thường nói “Không tương ưng với duyên khởi”. Duyên khởi vốn được khai triển từ ý nghĩa không, quán sát duyên khởi thì ngộ được lý tính của tất cả các pháp đều quy về không tịch. Đây là phương pháp và cũng là mục đíchĐức Phật tuyên thuyết giáo lý Duyên khởi.

Phật nói Tam pháp ấn là từ tư cách hay tự thân của một chúng sanh hữu tình mà nói. Hữu tìnhvô thường, vô ngãkhông tịch. Trong các tôn giáo truyền thống của Ấn Độ, đặc biệt là các tôn giáo mới hình thành, mỗi tôn giáo đều cho rằng, trong cái thân năm uẩn sanh tử này, hoặc ngoài cái thân năm uẩn này, có tồn tại một cái ngã chân thậtthường trụ. Đức Phật cho rằng, hữu tìnhhữu tình của duyên khởi, y theo duyên khởi mà nói thì không có một cái gì là thường trụ, cái gì cũng vô thường, vô ngã.

Một số người cho rằng, hoàn cảnh thích ýhạnh phúc, hoặc cho rằng duy trì được trạng thái tâm cảnh hòa bình, không khổ không lạc là an ổn. Nhưng theo tuệ giác của Đức Phật, như vậy cũng còn khổ! Cái khổ này, không phải là cái khổ ưu sầu, mà là cái khổ do vô thường. Tất cả mọi niềm vui hạnh phúc, an ổn đều thay đổi, biến hóa không dừng. Cho dù có xứng tâm vừa ý cách mấy, bình an cách mấy, rồi thì cũng chỉ được một thời gian, cuối cùng đều hoại diệt. Có sanh ắt có tử, có trẻ ắt có già, có mạnh ắt có yếu, do đó mà nói ‘Vô thường là khổ’.

Bà-la-môn giáo có thuyết Thường ngã, đó là cái hạnh phúc vi diệu thù thắng. Đức Phật phản đối chủ thuyết này. Tất cả mọi sự mọi vật đều vô thường, biến đổi thì làm gì có cái hạnh phúc vi diệu thù thắng cứu cánh viên mãn? Cho nên, Phật nói vô thường là khổ. Khổ nên vô ngã. Vì sao? Vì ngã có nghĩa là chủ tể, là làm chủ mọi sự, là tự do tự tại. Nhưng, tất cả mọi loài hữu tình đều do các pháp uẩn, giới, xứ mà thành và biến hóa vô thường, mà vô thường thì khổ, khổ thì không có tự tại, như vậy làm sao gọi là có ngã được? Đức Phật dạy, do vì chúng sanh hữu tình chấp có ngã cho nên mới tạo nghiệp để rồi lưu chuyển sanh tử không dừng. Chấp ngã là căn nguyên của sanh tử luân hồi. Nếu như giác ngộ vô ngã thì không còn cái nhân sanh tử; hoặc, nghiệp đều không khởi, ngay đó thấy được thật tướng các pháp, đạt được chánh giác, tất cả đều là tịch tịnh Niết-bàn.

Đức Phật dựa trên đời sống của chúng sanh hữu tình mà nói ý nghĩa tam pháp ấn. Chúng sanh hữu tình tồn tại trên thế gian này dựa vào năm uẩnhoàn cảnh để năm uẩn tồn tại, tất cả những pháp này đều là vô thường. Thế gian quả thậtvô thường, nhưng không thể nói vì vô thường nên thế gian khổ và vô ngã. Chẳng hạn, nói cây viết này là vô thường, điều này đúng, nhưng không thể nói vì vô thường nên cây viết khổ và vô ngã. Cây viết là vô tình, căn bản là nó không có cảm giác, tức là nó không biết khổ hay không khổ. Nó không biết khổ hay không khổ, cũng không biết tự do hay không tự do, và cũng không biết chấp trước là ngã. Nó không có ngã, và cũng không có nhu yếu để đòi hỏi vô ngã. Cho nên, thuyết vô thường là khổ, khổ nên vô ngãy cứ trên đời sống của chúng sanh hữu tình mà nói.

Đức Phật thuyết giảng ba pháp ấn với một phương pháp vô cùng thiện xảo, bởi đồng một mệnh đề mà vừa làm hai phương diện giải thoát: vừa là chân tướng của sự thật, là lý tính phổ biến, vừa là quá trình thực tiễn.

Ba pháp ấn có nghĩa vô cùng sâu xa, nhưng trong mỗi pháp ấn đã bao hàm hai pháp ấn kia. Mỗi một pháp ấn đã có thể khai hiển nội dung chánh giác. Tức là, mỗi một pháp ấn đã có năng lực xa lìa chấp trước, chứng quả chân thật. Y theo cánh cửa vô thườngngộ nhập, tức là vào cánh cửa Vô nguyện giải thoát môn; y theo vô ngãngộ nhập, tức là vào cửa Không giải thoát môn; y theo Niết-bàn tịch diệtngộ nhập, tức là vào cửa Vô tướng giải thoát môn. Bởi vì căn tính của chúng sanh hữu tình vốn bất đồng, cho nên hoặc nói như vậy, hoặc nói như kia, hoặc nói hai pháp ấn, hoặc nói ba pháp ấn, bốn pháp ấn...

Thứ tự quá trình tu tập luôn in đậm tam pháp ấn: trước hết là quán vô thường, do vô thường mà quán thấy vô ngã, và thấy vô ngãđạt được Niết-bàn. Trong kinh thường nói: yểm ly, ly dục, giải thoát. Đây cũng là thứ tự tu tập theo tam pháp ấn. Quán chiếu các hành vô thường cho nên yểm ly những tai họa của thế gian mà tìm cầu sự xuất ly; thông đạt các pháp vô ngã, không có gì là ta, của ta cho nên xa lìa được tất cả mọi ái dục; ly dục rồi thì tất cả mọi phiền não đều rơi rụng, do đó mà đạt được Niết-bàn giải thoát.

Trong bộ luận Đại trí độ, Bồ-tát Long Thọ nói: Vô thườngcửa không, không là cửa Vô sanh. Đây cũng là cách nói khác về thứ tự của ba pháp ấn, vì không tức là vô ngã, vô sanh tức là Niết-bàn.

Có thể nói giáo lý ba pháp ấn vừa diễn tả chân tướng của các pháp, vừa là lịch trình, là bản đồ tu học. Đây là giáo pháp đặc biệt hy hữu và chỉ duy nhất có trong Phật giáo! 

 Thích Nguyên Hùng

________________

(1) ĐTK/ĐCTT, T02, n°.0103, Phật thuyết thánh pháp ấn kinh, p.0500a10.

(2) ĐTK/ĐCTT, T02, n°.0104, Phật thuyết pháp ấn kinh, p.0500b25.

(3) ĐTK/ĐCTT, T02, n°.0104, Phật thuyết pháp ấn kinh, p.0500c02 :  此 法 印 者,即 是 三 解 脫 門,是 諸 佛 根 本 法,為諸佛眼,是即諸佛所歸趣故.

(4) Kinh dẫn thượng.

(5) ĐTK/ĐCTT, T15, n°.0599, Phật vị Hải Long vương thuyết pháp ấn kinh, p.1057b10.

(6) ĐTK/ĐCTT, T02, n°.0099, Tạp A-hàm, kinh số 262, Xa-nặc. Tương đương Pali, S.22.90, Channo.

(7) Câu-xá luận, quyển 16.

(8) ĐTK/ĐCTT, T27, n°.1545, p.994c.

(9) ĐTK/ĐCTT, T12, n°.0374, p.0512c.

(10) ĐTK/ĐCTT, T32, n°.1647, p.0389c.

(11) ĐTK/ĐCTT, T12, n°.0353, p.0220c.

(12) ĐTK/ĐCTT, T02, n°.99, p. 126b.

(13) ĐTK/ĐCTT, T12, n°.0374, p.0514c.

(14) ĐTK/ĐCTT, T29, n°.1558, p.35a.

(15) ĐTK/ĐCTT, T12, n°.0374, p.0402a.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8781)
Sinh thuận, tử an là một phước báo lớn của con người. Một khi chưa biết nghiệp duyên của mình sẽ chết bình an hay bất an thì hãy cố gắng tu tập các thiện pháp.
(Xem: 8478)
Bản Chất của Hạnh Phúc được trích từ tác phẩm Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc: Cẩm Nang cho Đời Sống, một quyển sách căn cứ trên sự mở rộng những đối thoại giửa Đức Đạt Lai Lạt MaBác sĩ Howard C. Cutter, một nhà tâm lý trị liệu phương Tây.
(Xem: 8015)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7760)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6964)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13837)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7570)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9327)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7859)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7798)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7360)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7744)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7478)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8683)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11091)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15460)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19240)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14930)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8847)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8844)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14687)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15296)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8538)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 10995)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11342)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8723)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9092)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19795)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24713)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8831)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9152)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10819)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9024)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7930)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8817)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8311)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7328)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11147)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7410)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8298)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17709)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44234)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45511)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45082)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10646)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8574)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7581)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7602)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7395)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12134)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7954)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8443)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9198)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8119)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8920)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 8036)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8196)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8702)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16361)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7152)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant