Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Danh Hiệu Đại Sĩ Avalokiteśvara Trong Tịnh Độ Giáo

22 Tháng Mười Một 201705:55(Xem: 7066)
Danh Hiệu Đại Sĩ Avalokiteśvara Trong Tịnh Độ Giáo
DANH HIỆU ĐẠI SĨ AVALOKITEŚVARA TRONG TỊNH ĐỘ GIÁO[1]

Phước Nguyên

Danh Hiệu Đại Sĩ Avalokiteśvara Trong Tịnh Độ Giáo


Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm. Vị Bồ-tát biểu tượng cho thể tính đại bi hay tình yêu phổ quát, được sùng bái rất thịnh hành trong các giới Phật tử. Vậy nguồn gốc danh hiệu, yếu chỉ tu tậphành đạo, cùng các đặc điểm hành nguyện của vị Bồ-tát này như thế nào?

Trước khi trình bày về yếu chỉ hay cương lĩnh tu tậphành đạo của Bồ-tát Avalokiteśvara, cần giải thích một số ý nghĩa về mục từ: Quán Tự Tại, Quán Thế Âm, Phổ Môn và một số từ ngữ khác.


Tiết 1
. Danh hiệu Quán Tự Tại

1.Từ nguyênnhận định

Chữ Quán Thế Âm, hay Quán Tự Tại, tiếng Sanskrit Avalokiteśvara, Avalokitasvara, Tây Tạng dịch là Spyan-ras gzigs dban-phyug.

Phân tích ngữ học của từ Avalokiteśvara (danh từ, số ít):

Avalok: phân từ quá khứ, thể thụ động, có nghĩa là ‘để xem xét’, do Ava tiếp đầu ngữ: bên dưới, xung quanh;

Lokita, phân từ quá khứ của động từ căn √lok: quán sát, nhìn ngắm, v.v.. dùng ở thì hiện tại, dạng bất quy tắc của ngữ pháp Sanskrit; ita viết riêng là tiếp vĩ ngữ.

Avalokita: là động từ chuyển thành danh từ có nghĩa là người nhìn xuống.

Īśvara: danh từ, giống cái, số ít, biến cách 1. Chủ thuộc, có nghĩa là Chúa tể, bậc Thầy.

Nên nghĩa đen của Avalokiteśvara là vị chúa tể về sự nhìn xuống và xung quanh, ý nói bậc Thầy về sự quán sát toàn diện.

Sự giải thích về ngữ nguyên của danh hiệu này có rất nhiều ý kiến khác nhau, chúng tathể tham khảo một vài nhận định:

 G.P. Malalasekera trong Encyclopedia of Buddhism, giải thích: “bậc tối caochúng ta có thể nhìn thấy được, sự hiện thể, hay có khả năng trông thấy ở bất kì nơi nào”[2].

  Mircea Eliade trong The Encyclopedia of Religion: “Avalokitésvara là từ Sanskrit phức hợp, thiết lập từ thành tố ‘avalokitā và ‘īsvara’, có nghĩa là đấng tối cao trông chờ nhìn thấy, hay vị chúa tể đang quán sát, đang nhìn ngắm.”[3]

  Har Dayal trong The Bodhisattva Doctrine in Buddhist Sanskrit Literature giải thích: “Avalokitésvara nghĩa là “vị chúa tể có cái nhìn bi mẫn”, “đấng chúa tể của người đã khuất và đang khuất”, “vị chúa tể được nhìn thấy từ một điểm cao hơn”, hay “vị chúa tể nhìn xuống từ đỉnh cao”, “vị chúa tể đang nhìn ngắm”[4] v.v... Ông nói tiếp: “Người ta có thể loại suy rằng người Trung quốc biết đến dạng avalokitasvara mà về sau biến dạng thành avalokiteśvara, là do có sự lẫn lộn giữa hai từ lokesvaraavalokitasvara[5]

 Kenneth K.S. Ch’en trong Buddhism in China, giải thích: “Avalokitésvara, hình thành từ ‘avalo’, phân từ quá khứ, thể thụ động: được thấy, ‘īsvara’: vị chúa tể; Avalokitésvara: vị chúa tể có cái nhìn yêu thương, vị chúa tể nhân loại trong thấy,[6] v.v..”

  Sir Charles Eliot trong Hinduism and Buddhism giải thích: “Avalokita là một dạng khác của avalokitésvara, ám chỉ ‘vị chúa tể nhìn xuống’. Hoặc cũng gọi là Lokitésvara: ‘vị chúa tể của thế gian’”[7].

  Thomas Edward J. trong History of Buddhist Thought trình bày: “Avalokita là một trong hai danh hiệu của Avalokiteśvara, thiết lập từ động từ avalokayati: nhìn ngắm hay quán sát... Dạng ‘avalokita-svara’ được dùng bởi một số dịch giả Trung quốc, nhưng thật ra, trong tiếng Sanskrit nó không hề có một ý nghĩa nào cả và cả đến trong tiếng Trung quốc cũng vậy”[8].

 Lokesh Chandra trong Thousand-Armed Avalokitesvara: “Chữ ‘avalokita’ đã xuất hiện trong tác phẩm Bodhicaryāvatāraḥ của Śāntideva,... Từ avalokita chính là phát xuất từ avalokitesvara, xuất hiện lần đầu tiên trong bản kinh Sanskrit Sukhāvatīvyūha. Avalokitesvara bị ảnh hưởng tín ngưỡng śiva hay īsvara vào thời hậu kì và căn cứ trên quan điểm của N.D. Mironov[9] thì danh hiệu sớm nhất đọc bằng tiếng Sanskrit phải là avalokita-svara”.

Theo ý kiến của chúng tôi, những nhận địnhgiải thích của các học giả dẫn ở trên chỉ nên tham khảo, vì nó có tính cách mơ hồ, vấn đề này sẽ được bàn thảo chi tiết ở một chương khảo luận khác, vì nó không phải là mục tiêu nghiên cứu của chương này.

II. Phiên dịchgiải thích trong Hán tạng

Trong Đại Tạng Kinh chữ Hán, có thể tìm thấy rất nhiều phiên âm khác nhau của từ Avalokiteśvara, đại khái như:

A bà lô kiết đế thước bát ra 阿婆盧羯帝爍鉢囉,

A bà lô cát đế thất phật ra 阿 婆盧吉帝室佛囉,

A bà lô kiết đế thước bàn ra 阿婆盧羯帝爍皤囉,

A bà lô cát đế xá bà la 阿婆 盧吉帝舍婆羅,

A phược lô chỉ đế thấp phạt ra 阿縳盧枳坁濕伐囉,

A phược lô chỉ đế y thấp phạt la 阿縳盧枳坁伊濕伐羅,

A phược lô chỉ đa y thấp phiệt la 阿縳盧枳多伊濕筏羅,

A phạ lô chỉ đế thấp phạt la 阿嚩盧枳帝濕伐羅,

A phạ lô chỉ đế thấp phạ ra 阿嚩盧枳帝濕嚩囉,

Bô lô kiết đế nhiếp phạt la 逋盧羯底攝伐羅,

Ái lâu hoàn 廅樓亘 v.v…  

Tạm thời, căn cứ trên từ Avalokiteśvara, đa phần các học giả hiện đại đều chấp nhận rằng nó được phiên dịch sang rất nhiều từ Hán khác nhau, như:

 Quang Thế Âm 光世音 (Trúc Pháp Hộ dịch, Chánh Pháp Hoa Kinh 10, phẩm 23)[10].

  Quán Tự Tại 觀自在 (Huyền Tráng dịch, Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh)[11].

 Quán Thế Âm 觀世音 (Cưu-ma La-thập dịch, Diệu pháp liên hoa kinh, phẩm 25)[12].

 Quán Thế Tự Tại 觀世自在 (Bồ-đề lưu chi dịch, Thâm mật giải thoát kinh, phẩm 10)[13].

 Quán Thế Âm Tự Tại 觀世音自在 (Bất Không dịch, Đại từ đại bi cứu khổ Quán Thế Âm Tự Tại vương Bồ-tát quảng đại viên mãn vô ngại tự tại thanh cảnh đại bi tâm đà la ni )[14].

 Khuy Âm 闚音 (Chi Khiêm dịch, Phật thuyết vô lượng môn vi mật trì kinh)[15]

 Hiện Âm Thanh 現音聲 v.v..

Về nguyên ngữ, trong các thủ bản Sanskrit hiện còn đều phổ thông viết là Avalokiteśvara. Theo giải thích của Huyền Tráng trong Tây vực ký 3[16]:

阿縛盧枳低濕伐羅菩薩像. 唐言觀自在. 合字連聲,梵語如上;分文散音,即阿縛盧枳多譯曰觀,伊濕伐羅譯曰自在. 舊譯為光世音,或云觀世音,或觀世自在,皆訛謬也.

"Hình tượng A-phược-lô-chỉ-đế-thập-phạt-la Bồ-tát, Đường dịch là Quán Tự Tại. Do dính chữ liền âm nên tiếng Phạn nói thế. Nếu tách rời âm thì A-phược-lô-chỉ-đa (Avalokita) dịch là Quán; Y-thấp-phạt-la (Īśvara) dịch là Tự Tại. Cựu dịchQuang Thế Âm, Quán Thế Âm hay Quán Thế Tự Tại đều là sai cả".

Để tránh giải thích lầm lẫn, cần phân biệt hai chữ Sanskrit khác nhau mà Hán đều dịch là Tự Tại自在, đó là vaśitā (tự chủ, tự do, thoải mái) và īśvara (vị chúa tể, bậc Thầy lão luyện).

Điều đáng lưu ý ở đây là trong các sớ giải Hán tạng, thường không quan đến đến nguyên gốc Sanskrit của từ Quán Tự Tại là gì, dẫn đến xuất hiện một số giải thích về chữ Quán Tự Tại có nghĩa là quán sát tự do tự tại, quán chiếu một cách tự chủ thoải mái. Đó là giải thích theo cách chiết tự chữ Hán, chứ không phải theo ý nghĩa và cấu trúc ngữ pháp Sanskrit, bởi vì chữ īśvara nó là danh từ ở biến cách thứ nhất, nên phải được hiểu là: Đấng Chúa Tể hay Bậc Thầy lão luyện (về sự quán sát), chứ không thể hiểu như động từ hay hay tĩnh từ chỉ sự tự do thoải mái. So sánh với bản kinh Pháp hoa Tây Tạng, cũng thấy dịch là Spyan ras gzigs kyi dbang phyug: chúa tể của sự nhìn ngắm.

Chữ īśvara, Huyền Tráng dịch là “Tự Tại” không hàm nghĩa tự chủ hay tư do, mà nó có sự liên hệ với cách dịch của chữ Đại Tự Tại ThiênMaheśvara. Chữ īśvara từ trong Vệ-đà và văn cổ Sanskrit, được quan niệm là đấng có quyền năng, quyền lực, tức chỉ cho một hữu thể tối thượng, một linh hồn tối cao tồn tại như là một tự ngã (ātman). Về sau này, Maheśvara được giải thích là đấng chúa tể của thế giới.

Vì vậy, chữ Īśvara trong Avalokiteśvara hay chữ Tự Tại trong Quán Tự Tại cũng có nghĩa là chúa tể, nhưng không hàm nghĩa Đấng ngự trị thế giới như Đại Tự Tại Thiên, mà là chúa tể về sự chiêm nghiệm những phiền não của tự thân để diệt trừquán sát những nỗi khổ niềm đau của chúng sinh để đồng hành và đưa họ vượt qua giai đoạn hiểm nghèo của cuộc đời, thực hành như vậy gọi là đấng viên mãn Bồ-đề hành và Bồ-đề nguyện, thành tựu Chánh trí Bồ-đề tâm, như thế được mệnh danh là Chúa tể của sự quán sát.

Tiết 2. Danh hiệu Quán Thế Âm

blankTrong Đại đường Tây vực kí, Ngài Huyền Tráng căn cứ trên gốc Sanskrit Avalokiteśvara, để phủ định cách dịch Avalokiteśvara thành chữ Quán Thế Âm điều này là hoàn toàn có lý. Nhưng để nói chữ Quán Thế Âm là một chữ ngụy tạo, hay không có nguồn từ Sanskrit thì cách nói này không chính xác.

Theo như báo cáo Mironov's readings from Central Asian mss của Nalinakṣa Dutt[17], thì tả bản cổ Quán Thế Âm Bồ-tát phổ môn phẩm phát kiến ở Tân cương ghi là Avalokitasvara. Từ này có thể dịch sát là Quán Âm, nghĩa là âm thanh (svara) được quán sát.

Nhưng trong bản dịch Pháp hoa của Cưu-ma-la-thập, danh hiệu này được dịch là Quán Thế Âm. Có thể đó là dịch ý từ đoạn văn sau đây trong phẩm Phổ môn, bản dịch của La Thập:

"若有無量百千萬億眾生受諸苦惱. 聞是觀世音菩薩. 一心稱 名. 觀世音菩薩即時觀其音聲皆得解脫".[18]

 “Nếu có vô lượng trăm nghìn các chúng sinh chịu đựng các thứ khổ não, khi nghe đến Quán Thế Âm Bồ-tát này, nhứt tâm xưng danh, Quán Thế Âm bồ tát tức thì quán âm thanh ấy mà đều được giải thoát.”[19]

Đoạn này, trong bản Sanskrit kinh Saddharmapuṇḍarīka hiện còn, đọc như sau:

yāvanti sattvakoṭīnayutaśatasahasrāṇi yāni duḥkhāni pratyuanubhavanti, tāni sacedavalokiteśvarasya bodhisattvasya mahāsattvasya nāmadheyaṃ śṛṇuyuḥ, te sarve tasmādduḥkhaskandhād parimucyeran[20].

“Nếu có hàng trăm nghìn, hàng trăm triệu, hàng trăm tỉ chúng sinh chịu đựng các thứ khổ não, nếu chúng sinh nghe được danh hiệu của bồ tát Avalokiteśvara, tất cả chúng sinh do đó được giải thoát khỏi khối lớn đau khổ”.

So sánh hai bản Sanskrit và Hán trên, chúng ta thấy trong bản Sanskrit không có từ nào ám chỉ nào về sự "Quán sát âm thanh của thế gian", rõ ràng như bản Hán của La-thập.

Các giải thích Trung quốc, tiêu biểu như Pháp hoa văn cú 10, Pháp hoa nghĩa sớ 12 (Cát Tạng), Hoa nghiêm thám huyền ký 19, Pháp hoa huyền tán 10 (phần cuối) đều căn cứ trên quan điểm truyền thừa bởi La-thập. Tựu trung các sớ giải Pháp Hoa Hán tạng, thường giải thích Quán Thế Âmhai nghĩa:

- Đối với dụng công tu tập: Trong sáu giác quan, Ngài dùng thính giác để tu tập, lắng nghe tất cả âm thanh của thế gian, nhưng không khởi lên cấu trúc sai lầm (hư vọng phân biệt), không bị âm thanh của thế gian làm tháo động, lại còn có năng lực lắng nghe thể tính cá biệt của chính mình, thuật ngữ chuyên môn gọi là: “phản văn, văn tự tánh”, thành tựu nhĩ căn viên thông, vì vậy, gọi là Quán Thế Âm.

- Đối với tùy duyên hóa độ: Đại sĩ vì đã thể chứng phẩm tính Đại bi, nên đối với hết thảy chúng sanh ngài trải tình yêu phổ quát đến họ. Bất cứ ai, trong cơn khổ đau, chết chóc nguy khốn mà nhất tâm tôn kính hoặc hành trì danh hiệu của Ngài, thì ngài sẽ làm nơi nương tựa cho các chúng sinh ấy như vầng nhật nguyệt phá tan hắc ám, ngài luôn trụ nơi bản nguyện đại bi, tùy thuận duyên sinh-nghiệp quả, để cứu thoát chúng sinh trong đêm dài sinh tử, nên gọi là Quán Thế Âm.

Vậy thì, chỉ danh hiệu Quán Thế Âm cũng biểu hiện rõ ràng hành vinguyện lực của ngài.


Tiết 3. Quang Thế Âm,
 Khuy Âm, Hiện Âm Thanh

Về nguồn gốc cách dịch là Quang Thế Âm 光世音 của ngài Trúc Pháp Hộ trong kinh Chánh pháp hoa 10:

此族姓子,若有眾生,遭億百千姟困厄患難苦毒無量,適聞光世音菩薩名者,輒得解脫無有眾惱,故名光世音. 若有持名執在心懷,設遇大火然其山野,燒百草木叢林屋宅,身墮火中,得聞光世音名

“Này người con trai dòng tộc cao quý! Hàng trăm ngàn vạn ức chúng sinh chịu vô lượng khốn khổ, ách nạn, tai họa, khó khăn, nguy hiểm mà lại nghe được danh hiệu của đức Quang Thế Âm Bồ-tát, liền được giải thoát khỏi không còn khổ não cho nên gọi là Quang Thế Âm.”[21]

Danh hiệu Quang Thế Âm trong đoạn cho kinh trên cho thấy nguyên văn tiếng Sanskrit của danh hiệu này ở đây được đọc là Abhālokasvara hoặc Abhālokitasvara, hoặc Abhālokiteśvara, trong đó từ đồng ngữ ava: dưới thấp, chung quanh được gọi là abhā: ánh sáng.

Những dịch nghĩa khác như Khuy âm: Âm thanh được liếc nhìn đến và Hiện âm thanh: âm thanh được thấy, đều cho thấy rõ ràng nguyên tiếng Sanskrit là Avalokitasvara.

Khi kinh Thủ lăng nghiêm giới thiệu công hạnh tu chứng của ngài do tu tập nhĩ căn viên thông, chứng tỏ danh hiệu của ngài được còn được đọc là Avalokitasvara thay vì Avalokiteśvara[22].


Tiết
4. Thí vô úy giả

Bồ-tát Quán Tự Tại, còn được tôn xưng là vị ban cho sự an ninh, không sợ hãi, là nơi trú ẩn an ổn. Chữ Hán Thí vô úy giả 施無畏者 là dịch ngữ của từ Sanskrit Abhayadada hay Abhayadāna. Tây Tạng gọi là Mi hjigs sbyin. Hán phiên âm là A bà diễn đà đà 阿婆演駄駄, A ba diên đà noa 阿波延陀拏, A bội diên na na 阿佩延娜娜.

Danh hiệu này được tìm thấy trong kinh Saddharmapuṇḍarīka, phẩm 24. Samantamukha chép:

eṣa kulaputra avalokiteśvaro bodhisattvo mahāsattvo bhītānāṃ sattvānāmabhayaṃ dadāti | anena kāraṇena abhayaṃdada iti saṃjñāyate iha sahāyāṃ lokadhātau.[23]

Này người con trai của gia đình hiền thiện, vị Bồ-tát Đại Sĩ Avalokiteśvara ấy ban sự an ninh đến cho các chúng sinh đang lo lắng, do đó trong thế giới Sa-ha này, vị ấy được gọi là Đấng ban cho an ninh.

Kinh Diệu pháp liên hoa 7, phẩm 25. Phổ môn, bản dịch chữ Hán của La Thập:

是觀世音菩薩摩訶薩. 於怖畏急難之中能施無畏. 是故此娑婆世界. 皆號之為施無畏者[24].

Trong nỗi kinh hoàng, trong cơn nguy cấp, trong sự hoạn nạn, Quan Âm đại sĩ có thể cho người sự không sợ hãi, nên thế giới hệ Kham nhẫn này ai cũng tôn xưng là Người cho sự không sợ[25].

Chữ abhayaṃ: không chỉ là vô úy 無畏: không sợ hãi theo như Hán dịch, mà còn có nghĩa là sự an ninh, sự an ổn, nơi trú ẩn. Ban cho sự không sợ hãian ninh, không chỉ về thể chất mà còn cả tinh thần, giúp họ vượt qua những rủi ro nguy khốn, vì lẽ “Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo tác…”, có như thế mới xứng đáng được gọi bậc đã tác thành phẩm chất Abhayadada.

Vì vậy, ngài được tôn xưng là “Thí vô úy giả” là từ nơi bản nguyện độ sinhthiết lập danh hiệu, từ nơi phẩm tính mà thành tựu danh xưng.  

 



[1] Chương 1 này trích từ tác phẩm Đại sĩ Avalokiteśvara vị toàn diện và các biến thể, Phước Nguyên.

[2] G.P. Malalasekera, Encyclopaedia of Buddhism (1961). [Colombo]: Government of Ceylon, vol. ii, p.407. DOI: 10.1017/S0041977X00064107.

[3] Mircea Eliade, The Encyclopedia of Religion (1987). New York: Macmillan; London: Collier Macmillan, vol. ii, tr.11ff.

[4] Har Dayal, The Bodhisattva Doctrine in Buddhist Sanskrit Literature. (1932). London: Kegan Paul, Trench, Trübner & Co., Ltd., p. 47. DOI: 10.1017/S0035869X00154061.

[5] Ibib., tr. 48.

[6] Kenneth K.S.Ch’en, Buddhism in China (1964), Princeton University Press, New Jersey, USA, tr.346.

[7] Sir Charles Eliot, Hinduism and Buddhism: an historical sketch (1971), Vol. ii, Routledge & Kegan Paul, LTD, London, p.13.

[8] Thomas Edward J., History of Buddhist Thought (1934), London: Kegan Paul, Trench, Trübner and Co., p. 189, DOI: https://doi.org/10.1017/S0041977X00138509.

[9] Xem tiết 2. Danh hiệu Quán Thế Âm, bên dưới.

[10] T09n0263, tr. 0128c27.

[11] T08n0251, tr. 0848c07

[12] T09n0262, tr. 0056c04

[13] T16n0675, tr. 0680a19.

[14] T20n1113B, tr. 0498c07.

[15] T19n1011, tr. 0680b13.

[16] T51n2087, tr. 0883b22ff.

[17] Nalinakṣa Dutt, Saddharmapundarikasutram, N.D. Mironov's readings from Central Asian mss (1953), tr. 286.

[18] T09n0262, tr. 0056c05.

[19] Trưởng lão Trí quang dịch: “Đức Thế Tôn dạy bồ tát Vô tận Ý, thiện nam tử, vô số chúng sinh bị mọi sự đau khổ, nghe nói đến Quan Âm đại sĩ mà một lòng trì niệm danh hiệu của ngài, thì đại sĩ tức khắc nghe thấy âm thanh ấy và họ được thoát cả.”  trích Pháp hoa tập 2 (1994), tr. 898-899.

[20] Saddhp, tr. 250.

[21] T09n0263, tr. 0128c24

[22] Cf. T19n0945, 0128b15 ff.

[23] Saddh., tr. 252.

[24] T09n0262, tr. 0057b22.

[25] Trưởng lão Trí quang dịch, Pháp hoa tập 2 (1994), Xí nghiệp in Gia định, tr. 908.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9983)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7085)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7333)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6988)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9349)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5833)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7099)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6519)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6094)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7160)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14379)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20425)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9467)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7865)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8182)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7447)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9371)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7443)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7478)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7663)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9468)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8774)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7364)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7956)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7008)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7664)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9853)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8281)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8830)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7666)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8824)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8627)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 7998)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9008)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9424)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8725)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8879)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7222)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9178)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8596)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7888)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9615)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10163)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8757)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8360)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7620)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9323)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7471)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15347)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7295)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8474)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12225)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7297)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11492)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8309)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8032)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7902)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8917)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7405)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(Xem: 18176)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant