Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“

30 Tháng Mười Hai 201705:47(Xem: 7763)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“
Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ

Thích Như Điển

 

Ngày nay Internet phát triển một cách nhanh chóng và phổ cập khắp nơi trên hoàn vũ, hầu như không có ai là không nghe hay không biết đến phương tiện truyền thông nầy. Rất nhanh và tiện lợi muôn phần. Muốn tra cứu cái gì cũng có, muốn học cái gì cũng không thiếu. Vấn đề là ai đó có đủ can đảm để ngồi suốt ngày bên máy vi tính để đọc chữ trên màn ảnh không? Đó là vấn đề chính. Cứ ngỡ rằng khi máy vi tính phát triển nhanh thì những tổ hợp ấn loát kinh, sách, báo chí sẽ ế ẩm, nhưng đa phần những người lớn tuổi thì thích cầm quyển kinh hay quyển sách bằng giấy trên hai tay, đọc một cách trang trọng, thoải mái hơn và muốn đọc lúc nào cũng được, muốn nghỉ cũng không bị lệ thuộc vào bất cứ điều kiện gì cả. Trong đó có tôi là người chọn lựa cách thứ hai nầy.

Được một nhân duyên lớn là Thượng Tọa Thích Minh Định, Trụ Trì chùa Kim Quang tại Pháp trong 10 năm nay, trước đây Thầy đã tu học tại Vạn Phật Thánh Thành của cố Hòa Thượng Tuyên Hóa, nên tiếng Phổ Thông Thầy rất lão luyện; những kinh sách của Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng như: Nhân sinh yếu nghĩa (1 tập), Chú Đại Bi giảng giải (1 tập), Chú Lăng Nghiêm giảng giải (tập 1 và tập cuối), Kinh Pháp Hoa (1 quyển trọn bộ), Kinh Hoa Nghiêm (8 quyển trọn bộ), Kinh Hoa Nghiêm giảng giải (từ tập 1 cho đến tập thứ 25 trọn bộ). Cứ xem như mỗi tập là một tác phẩm đi, thì Thượng Tọa Minh Định đã dịch sang Việt ngữ tất cả là 44 quyển; có quyển dày đến gần cả 1.000 trang. Thầy đã gửi biếu đến các chùa sau khi đã in ấn, nên tôi mới có cơ hội làm quen với những dịch phẩm nầy của Thượng Tọa. Công đức nầy thật không nhỏ chút nào đối với những người học Phật, mong muốn được rõ biết hoàn toàn qua ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, thì những kinh sách nầy sẽ giúp cho các độc giả xa gần lãnh hội một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn.

Quyển “Nhân sinh yếu nghĩa “tôi đã đọc xong, nhưng không điểm sách, vì lẽ đó là những lời giáo huấn đơn thuần của Ngài Tuyên Hóa cho các đệ tử xuất gia cũng như tại gia trong công việc tu tập hằng ngày tại Vạn Phật Thánh Thành. Đến quyển “Chú Đại Bi giảng giải” thì tôi đã đọc một cách say mê và cũng đã có điểm sách rồi, nhiều trang nhà trên thế giới đã đăng tải bài nầy. Nay sau khi đọc xong hai tập “Chú Lăng Nghiêm giảng giải tập I và tập cuối” trong nhiều ngày, tôi xin cung tuyên lại những gì đã thẩm thấu qua lời giảng giải của Ngài Tuyên Hóa trong suốt 192 trang của tập I (không kể phần được dịch ra tiếng Pháp của Sư Cô Thích Nữ Đàm Như) và tập cuối gồm 572 trang do nhà xuất bản Hồng Đức ở Việt Nam in ấn. Đây là những lời giải thích đầu tiên về Chú Lăng Nghiêm mà tôi biết được kể từ khi xuất gia năm 1964 đến nay 2017 cũng đã hơn 53 năm như thế. Quả là một điều vi diệu vô cùng và cũng trong hơn 53 năm ấy, tôi hành trì Chú Lăng Nghiêm vào mỗi buổi sáng tại chùa hay bất cứ nơi đâu khi tôi đi Phật sự, chưa bao giờ chểnh mảng trong gang tấc. Nghĩa là hầu như ngày nào tôi cũng có hành trì, đọc tụng Thần Chú nầy.

Về Kinh Lăng Nghiêm thì Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (1966-1973) đã biên soạngiảng giải trong bộ Phật Học Phổ Thông khóa 6 và khóa 7 với tiêu đề là: Triết lý Đạo Phật hay là Đại cương Kinh Lăng Nghiêm gồm 264 trang thì tôi đã học, đã giảng suốt 6 tháng trường cho các Phật tử tại gia trong những Đạo Tràng Tu Bát Quan Trai giới tại Đức cũng như ở Âu Châu trong những năm 2015-2016, nhưng chỉ giảng chủ yếu của Kinh Lăng Nghiêm là Phật gạn hỏi về Tâm với Ngài A Nan, nhân việc Ngài A Nan bị nạn của Ma Đăng Già, chứ không giải thích từng câu từng chữ như trong Chú Lăng Nghiêm giảng giải của Ngài Tuyên Hóa. Ngài Tuyên Hóa chia ra 5 đệ, từ đệ nhất đến hết đệ ngũ gồm có 554 câu tất cả, bao gồm 2.620 chữ được phiên âm từ Phạn ngữ ra Hoa ngữ và Thượng Tọa Minh Định đã chuyển dịch ra Việt ngữ một cách lưu loát, thông suốt hoàn toàn. Cứ mỗi một câu Thần Chú, Ngài Tuyên Hóa soạn ra 4 câu kệ để tả những công năngsức lực của Chú, nói ra sự diệu dụng chân thật của Chú. Ngài đã nói: “Tôi tả những bài kệ, đều có quan điểm và sự thấy pháp của tôi, tôi chân thật tả ra, từ trong tự tánh của tôi lưu xuất ra, cũng là sự kinh nghiệmnhận thức tâm thần lãnh hội đối với Chú”. Đọc qua đoạn nầy ở trang 522 của tập cuối, chúng ta thấy rõ được rằng Ngài Tuyên Hóa đã chứng nhập vào Lăng Nghiêm Tam Muội nên Ngài mới thấy được Pháp của chư Phật và từ tự tánh của Ngài đã lưu xuất ra. Thì đây chính là do pháp hành mà có, chứ không phải do pháp học, vì Ngài Tuyên Hóa hoàn toàn không biết Phạn ngữ. Giảng giải Thần Chú Lăng Nghiêm được như thế nầy, thì trên thế gian chỉ có một vị như thế chứ chưa có người thứ hai.

Về công năng của sự hành trì Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm nầy thì Ngài Tuyên Hóa quyết đoán nơi trang 539 rằng: “Mỗi ngày bạn tụng niệm Chú Lăng Nghiêm, thì ít nhất bảy đời làm viên ngoại, trưởng giả giàu có, quần áo, thức ăn uống không thiếu, tất cả hết thảy đều có đủ. Nếu nói về quả vị bậc Thánh hiền, bạn tiếp tục tụng Chú Lăng Nghiêm, tức là phát tâm đại Bồ Đề, không cần phải trải qua ba đại A Tăng Kỳ kiếp mới đắc được pháp thân, cho nên nói: Diệu Trạm tổng trì Bất Động, Chú Thủ Lăng Nghiêm hiếm có trong đời”. Nhưng theo Ngài Tuyên Hóa, muốn được thành tựu như vậy thì ngoài việc trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm hằng ngày, hành giả phải thực hành lục đại tông chỉ như ở Vạn Phật Thánh Thành thì mới mong có kết quả như ý. Đó là: Không cầu, không tham, không tranh, không lợi mình, không ích kỷ và không nói dối. Tất cả cũng từ lời Phật dạy mà ra, nhưng mỗi vị chủ trương thực hành giáo pháp của Đức Phật một cách miên mật khác nhau, tựu chung vẫn dẫn ta đến con đường chứng nhập Thánh quả. Trong Kinh Phật Bản Hạnh (tập 12 của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh) Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng cho chúng ta biết rằng: Ngài Di Lặc tu trước Ngài, nhưng thành Phật sau 5 kiếp, vì lẽ sự phát Bồ Đề tâm và hành Bồ Tát hạnh của Đức Bổn Sư miên mật, liên lục hơn Ngài Di Lặc, nên Bồ Tát Di lặc trong hiện đời Ngài mới chỉ làm Nhứt Sanh Bổ Xứ ở cõi Nội Viên Đẩu Suất mà thôi. Chỉ ngần ấy việc, chúng ta cũng đủ thấy rằng, sự dụng công trong khi tu hành và việc phát Bồ đề tâm sẽ quyết định quả vị của chúng ta cho bây giờ và mai hậu.

Chú Lăng Nghiêm nầy Cố Hòa Thượng Tuyên Hóa đã giảng cho những đệ tử xuất giatại giaVạn Phật Thánh Thành tại Hoa Kỳ hằng tuần từ năm 1979 đến năm 1987. Tổng cộng hơn 8 năm và có hơn 554 lần giảng. Cũng có vài câu Thần Chú Ngài không giảng vì giống nhau như trong đệ tam hội và một vài nơi trong đệ ngũ; đồng thời có lẽ vì thời gian không có hay bận những Phật sự khác cần Ngài giải quyết nên có một số các bài kệ của những câu chú không được Ngài giải thích. Tựu chung, theo Ngài 554 câu Thần Chú nầy đều là những Pháp Hội của Chư Phật và chư vị Bồ Tát cũng như những quỷ vương. Ví dụ như đệ nhất hội, Ngài gọi là “Tỳ Lô Chân Pháp Hội”, nhưng Hội nầy Ngài mới giảng đến câu thứ 54 là Nam Mô Già Xà Câu La Gia, phần tiếp theo cho hết đệ nhất cũng như đệ nhị hội không thấy Ngài giảng; hoặc giả còn một tập giữa nữa mà Thượng Tọa Minh Định chưa dịch? Bắt đầu hội thứ ba Ngài gọi là: Hội Quán Âm hợp đồng; hội thứ tư là Hội Kim Cang Tạng Triết Nhiếp và hội thứ năm là Hội Văn Thù Hoằng Truyền. Riêng phần Thập Chú thì Ngài Tuyên Hóa đã giảng chung với Chú Đại Bi giảng giải rồi. Ngài cũng khẳng định rằng: “Nếu còn một người trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm nầy thì thế giới không bị ma chướng quấy nhiễu và quả đất nầy vẫn còn tồn tại. Cho đến khi nào ở trên thế gian nầy không còn một người nào hành trì Chú Lăng Nghiêm nầy thì ma quái sẽ hiện hình và phá tan sự sống trên quả địa cầu nầy”

Giáo Sư Lê Tự Hỷ, người biết rành Phạn ngữ cũng đã lập luận rằng:“Sở dĩ một số bản kinh văn bằng tiếng Phạn được truyền vào Trung Quốc, sau đó được dịch sang Hán Văn và cuối cùng bản chánh bị thất lạc, có lẽ do bị thủ tiêu. Vì lẽ văn học Trung Quốc, người Trung Hoa luôn tự hào là giá trị cao sâu nhất thế giới, còn những văn học khác, kể cả Phạn ngữ, thuở ấy người Hán gọi là rợ Hồ ở phương Bắc, nên không được lưu truyền”. Lập luận nầy có thể khả dĩ được tin tưởng hơn những lập luận khác xưa nay đã từng có. Ví dụ những học giả Phật Giáo của Nhật Bản, khi nghiên cứu chỉ thấy hai văn bản bằng Phạn văn được dịch sang tiếng Hoa, Nhật và Hàn như Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà, nhưng riêng bản Kinh Quán Vô Lượng Thọ thì không còn nguyên bản Phạn văn nữa, nên họ nghĩ rằng Kinh nầy không phải do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra. Nhưng nếu lập luận như Giáo Sư Lê Tự Hỷ, thì chúng ta có cơ hội để truy nguyên lại từ nguyên ngữ là Phạn ngữ, đã được chính Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng, vì lẽ nhân duyên để nói Kinh Quán Vô Lượng Thọ nầy là Đức Phật hiển thị các thế giới cho Hoàng Hậu Vi Đề Hy, vợ Vua Tần Bà Sa La phát tâm sau khi mạng chung sẽ sanh về một trong những thế giới khác của Đức Phật A Di Đà, mà nơi đó con người không còn luân hồi đau khổ nữa, như việc A Xà Thế đã giam cha mình vào ngục thất để cướp ngôi. Hy vọng một ngày nào đó các học giả sẽ tìm ra được những manh mối nầy để cho người đời sau không còn thắc mắc nữa.

Ở trang 561 Ngài Tuyên Hóa phán rằng: “Nhưng hiện tại vì sao có những vị học giả tào lao (chữ dịch của Thầy Minh Định) và những vị giáo thọ bụi bặm không thừa nhận Chú Lăng Nghiêm là do Đức Phật nói? Vì họ sợ Chú Lăng Nghiêm. Nếu họ thừa nhận là Phật nói, thì họ đứng không vững. Vì họ đều không giữ giới luật, kêu họ thừa nhận thì họ không thừa nhận. Tại sao họ không thừa nhận? Vì họ biết họ làm không được, cho nên họ nói đó là giả, như vậy họ mới có thể tồn tại, có thể nhận lầm mắt cá tưởng là hạt châu. Ở đây bịt tai ăn cắp chuông, làm những việc giả. Con mắt của các vị tức là cái nầy, không kia. Đâu phải Chú Lăng Nghiêm có gì đắc tội với họ, mà họ nói Chú Lăng Nghiêm là giả, họ làm người rồi chẳng tính gì nữa, người khác đã là giả, đã ở đó mặc quần áo của con người, ăn cơm của con người, nhưng làm quyến thuộc của ma vương. Những vị học giảgiáo thọ bụi bặm đó, nếu có bản lãnh thì kêu họ đến đàm luận với tôi (Ngài Tuyên Hóa), nhưng họ lại không dám đến”.

Trên đây là đoạn văn ở phần kết, khi Ngài Tuyên Hóa giảng Chú Lăng Nghiêm sắp xong và Ngài đã cho ta biết học giả là gì và hành giả là gì. Vậy chúng ta tin vào Đức PhậtChư Pháp Sư để từ đó chúng ta hành trì một cách miên mật hơn. Riêng phần tôi sau hơn 53 năm hành trì Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm miên mật như thế, thì tôi nhận định như thế nầy: Thần Chú là để cho Đức Phật và chư Phật hiểu biết lẫn nhau, ngay cả những vị Bồ Tát nghe còn không hiểu, thì làm sao chúng ta có khả năng hiểu được. Nó cũng ví như khi chúng ta dò tầng số của một đài nào đó trong Radio mà chúng ta muốn nghe, nhưng nếu tầng số ấy chưa bắt gặp được thì âm thanh, tiếng nói sẽ chẳng được phát ra và chúng ta chỉ nghe tiếng rè rè của máy mà thôi. Như vậy giữa tâm thức của chúng sanh và tâm của chư Phật, chư Vị Bồ Tát chúng ta chưa hòa nhịp được, nghĩa là chưa bắt đúng được tầng số của nhau thì làm sao chúng ta hiểu được lời của Phật. Nhưng chắc chắn một điều là sẽ có một ngày nào đó, chúng ta sẽ dò đúng tầng số kia để có thể hiểu được những mật ngữ của chư Phật và chư vị Bồ Tát như Hòa Thượng Tuyên Hóa đã hiểu và đã giảng giải cho chúng ta về Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm nầy.

Ngoài ra tôi cũng thường cho những ví dụ khác để dễ hiểu như sau: Kể từ khi chúng ta sinh ra được Mẹ cho uống sữa, sú cơm, ăn cháo, bánh mì v.v…từ khi mới lọt lòng cho đến khi trưởng thành, rồi già, rồi bịnh và chết. Mỗi ngày chúng ta ăn ba bữa chính, ngoài ra còn ăn dặm thêm vào lúc xế chiều. Có cả hằng trăm, hằng ngàn, hằng vạn vạn lần ngồi vào bàn ăn như thế mà có khi nào chúng ta định nghĩa cơm hay bánh mì là gì đâu? Thế mà chúng ta cứ ăn, cứ lớn lên, cứ sống trên đời nầy, nhưng nào ai có quan tâm đến nó làm gì. Nó cũng giống như hơi thở trong từng nhịp đập của con tim; nó như không khí ở trong bầu khí quyển, ngày đêm chúng ta hít thở không biết bao nhiêu lần, nhưng đâu có ai đếm thử chúng ta hít thở bao nhiêu lần trong một ngày, một tháng, một năm đâu? Thế mà chúng ta vẫn sống, vẫn làm việc và vẫn nhận không biết bao nhiêu niềm vui cũng như nỗi buồn của nhân thế nầy.

Tôi cũng thường hay ví dụ trong phần Tam Tự Quy về Tự Quy Y Pháp là: Đương nguyện chúng sanh, thâm nhập Kinh Tạng, trí tuệ như hải. Nghĩa là khi tụng kinh không phải để hiểu mà để thấm vào tâm mình những lời dạy của Đức Phật; còn để hiểu lời kinh khi tụng thì chỉ có những vị đã thâm nhập rồi, còn chúng ta muốn hiểu kinh, cần phải nghe chư vị Pháp Sư giảng giải trước, lúc ấy chúng ta sẽ hiểu rõ và khi tụng kinh, sẽ dễ thâm nhập hơn. Trong 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà, lời nguyện thứ 29 nói rằng: Tụng Kinh đắc tuệ. Nghĩa là người nào trì kinh, niệm chú thật miên mật thì trí tuệ sẽ phát sanh. Điều nầy rất dễ hiểu, nhưng ngày nay người ta chọn pháp học nhiều hơn pháp hành, nên kẻ chứng Đạo ít, người phân tích chủ quan thì nhiều. Nhìn lại lịch sử truyền bá Phật Giáo của Trung Hoa sau cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 cho đến nay ở Đài Loan cũng như Hồng Kông, Việt Nam, Singapore, Hoa Kỳ thì rõ. Các Ngài Giác Quang (Hồng Kông) Ấn Thuận, Bạch Thánh, Ngộ Minh, Tinh Vân, Thánh Nghiêm (Đài Loan), Ngài Diễn Bồi (Việt Nam, Mã Lai); Ngài Tuyên Hóa (Hoa Kỳ) v.v… tất cả các Ngài đều qua công năng hành trì mà tạo nên được những vị thế vững chãi cho Phật Giáo Trung Hoa ở ngoài lục địa kể từ hơn 100 năm nay, hầu như chưa có Ngài nào không qua pháp hànhthành tựu được những sở tu và sở chứng của mình cả.

Riêng tôi chủ trương thì cả Pháp Học và Pháp Hành đều quan trọng như nhau, nên tôi hay nói rằng: “Sự học nó không làm cho người ta giải thoát được, nhưng nếu muốn mở cánh cửa giải thoát kia, không thể thiếu sự tu và sự học được” Đây cũng là tư tưởng của mình và suốt cuộc đời hành đạo của tôi gần 50 năm ở Nhật Bản cũng như tại Đức Quốc đều dựa theo phương châm nầy để tiến tu đạo nghiệp. Tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam trong nước hiện tại có nhiều phân khoa khác nhau để các sinh viên Tăng Ni chọn môn để học trong đó có môn Phật Giáo Việt Nam tại Âu Châu. Khi học như vậy, chắc chắn quý Thầy, Cô sẽ được học về hai khuynh hướng Phật Giáo tại đây. Đó là Phật Giáo truyền thốngPhật Giáo cải cách. Phật Giáo truyền thống luôn lấy hai thời công phu sáng chiều của chư vị Tổ Sư nhiều đời làm căn bản hành trì, đồng thời những quyển Luật Tiểu hay Đại Luật cũng là những giới thể căn bản mà người xuất gia không được phép xao lãng. Khuynh hướng cải cách là khuynh hướng nhập thế, mang Đạo vào Đời và biến đổi kinh văn cũng như giới luật hiện đại hơn để cho người Tây phương dễ hội nhập vào với nền văn hóa của Phật Giáo Việt Nam. Riêng tôi, gần 50 năm nay ở ngoại quốc, tôi vẫn chọn phương pháp truyền thống, bảo thủ cái hay, thu nhập cái tốt để hành trì và hướng dẫn chư Tăng Ni cũng như Phật tử tại Âu Châu nầy, người Việt cũng như người ngoại quốc tu theo Phật Giáo Việt Nam phải trải qua việc học và đọc tụng thuộc lòng Thần Chú Lăng Nghiêm trước khi thế phát xuất gia. Do vậy mà ngày nay chúng ta cũng không lạ gì, tại Âu Châu nầy có rất nhiều người Phật tử tại gia ăn chay trường, thọ Bồ Tát Giới tại giahành trì Chú Lăng Nghiêm miên mật hằng ngày, mặc dầu đang sống đời sống tại gia, nhưng tâm đã hướng đến một đời sống thoát tục.

Mãi cho đến bao giờ truyền thống vẫn là cái gì mà nên khắc ghi, nhắc nhở giống như Ngài Tuyên Hóa. Ngài giảng Chú Lăng Nghiêm bằng tiếng Phổ Thông, người Mỹ, người Việt, người Hoa, người Nhật v.v…muốn hiểu Thần Chú nầy phải  học và nói tiếng Phổ Thông. Nhờ vậy mà quý Thầy người Mỹ đã có thể dịch thẳng Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho  Shinshu Daizokyo) từ chữ Hán sang tiếng Anh, để từ đó những thế hệ đi sau hay sanh ra tại ngoại quốc có cơ hội tiếp xúc với Kinh văn nầy một cách dễ dàng tiện lợi hơn. Riêng Bản Kinh Thiền Môn Nhật Tụng chúng tôi đã cho dịch ra được 8 ngôn ngữ tất cả như: Hán Việt, Hán Cổ, Việt Nam, Đức, Anh, Ý, Nga và tiếng Phạn. Hy vọng trong tương lai sẽ có thêm nhiều ngôn ngữ Tây phương khác nữa được phiên dịch ra, trong đó thêm cả Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm thì thế giới nầy sẽ an ổn biết bao, khi những vị Càn Thát Bà, Dược Xoa, La Sát, các vị Quỷ Vương luôn luôn hộ trì chúng tathế giới nầy sẽ được yên bình thịnh trị. Mong rằng mỗi hành giả hành trì Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm sẽ là những viên gạch vững chắc bằng tâm linh để ngăn chặn cái ác và xiển dương cái thiện trên quả địa cầu nầy.

Viết xong vào lúc 12 giờ ngày 22 tháng 12 năm 2017 tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7728)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22541)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8936)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
(Xem: 10159)
Cho đến nay, người ta vẫn chưa biết chính xác bản kinh Pháp Hoa này được thiết lập khi nào, ở đâu và được ghi lại bằng ngôn ngữ nào trước hết.
(Xem: 16869)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 8295)
Việc nghiên cứu Kinh Lăng-già, đã được ngài D.T.Suzuki thực hiện, qua tác phẩm “rất thẩm quyền”: Studies in the Lankavatara Sutra – nghiên cứu về kinh Lăng-già.
(Xem: 19135)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 8022)
Chính pháp trụ một nghìn năm, tượng pháp trụ một nghìn năm, mạt pháp trụ một vạn năm. Thuyết này trích trong Kì-hoàn tinh xá bi.
(Xem: 6975)
Nhị đếtục đếchân đế, còn gọi là chân lý tương đốichân lý tuyệt đối hay chân lý thế gianchân lý xuất thế gian.
(Xem: 8241)
Phật giáocách sống dựa trên việc rèn luyện tâm. Mục đích cao nhất là để đi trên con đường giải thoát khỏi đau khổ, và đạt đến Niết Bàn,
(Xem: 8592)
Trong 2 giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ nguyện vọng và dấn thân, chỉ với việc dấn thân chúng ta mới thọ giới Bồ tát.
(Xem: 9693)
Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 9559)
Thực chứng giáo lý duyên khởi, người thông tuệ hoàn toàn không vướng vào những quan điểm cực đoan...
(Xem: 7741)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại họcTrung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.
(Xem: 8308)
Đức Phật nói, nếu giữ tâm vững như hòn đảo trước phong ba bão táp của cuộc đời thì chúng ta sẽ có được chất liệu an vui, an vui về thái độ, tinh thần...
(Xem: 8315)
Phật dạy thân người do tứ đại gồm bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại hình thành; đất với gió lại không thuận với nhau, gió thổi mạnh thì đất rung rinh..
(Xem: 7956)
Phật dạy trong mỗi người chúng ta đều có phần tâm linh sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó;
(Xem: 8458)
Thực tại nền tảng của thế giới Hoa Nghiêm là Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Đây là Pháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là Pháp thân của tất cả chư Phật.
(Xem: 9993)
Dựa trên giả định các hoạt động của Tâm tạo ra những cấu trúc não bộ mới (Hebb 1949) cho biết ý tưởng, tình cảm có thể để lại dấu ấn
(Xem: 9020)
Là giai đoạn duy nhất trong kinh nghiệm cận tử liên quan đến việc nhận thức thế giới mang tính vật lý hơn là tính tâm linh...GIDEON LITCHFIELD
(Xem: 8808)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”
(Xem: 8051)
Nếu quý vị không có tuệ giác trong cung cách chính mình và mọi thứ thật sự là, quý vị không thể nhận ra và xa lánh những chướng ngại...
(Xem: 9982)
Tâm ta là vật quan trọng nhất. Mọi sự đến từ tâm, vì thế tất cả những gì không ai ưa thích mà giờ đây ta đối mặt cũng đến từ tâm.
(Xem: 9878)
Những giác quan của chúng ta góp phần cho sự si mê của chúng ta. Đối với những tính năng của chúng ta về thấy, nghe, ngửi, nếm, và cảm giác, những đối tượng dường như tồn tại trong tự bản chất của nó.
(Xem: 9375)
Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù.
(Xem: 10274)
Bất cứ ai quan tâm đến lịch sử Đức Phật đều muốn biết về bữa ăn cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà (Cunda) cúng dường,
(Xem: 14593)
Là vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Tuệ, Bồ Tát Văn Thù thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen.
(Xem: 9142)
Đức Phật là một bậc đạo sư thực tiễn. Mục tiêu duy nhất của Ngài là giải thích tất cả chi tiết trong vấn đề của khổ là thực tế phổ biến của cuộc đời.
(Xem: 8631)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 9787)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”.
(Xem: 15816)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 8207)
Bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh hay còn gọi là bảy pháp bất thối được đề cập trong bài kinh Đại bát Niết bàn, gồm: Có Tín tâm, có Tàm, có Quý, Đa văn, Tinh tấn, Chánh niệmTrí tuệ.
(Xem: 11143)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh.
(Xem: 11804)
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý tríthiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm.
(Xem: 8889)
Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
(Xem: 9131)
Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh
(Xem: 12053)
Chữ “giác ngộ” trong Đạo Phật, tiếng Pali và Sanskrit đều là “Bodhi”. Tiếng Anh là “enlightenment” hay “awakening”
(Xem: 9453)
Chúng tôi đã thuyết giảng về những cảm xúc đau khổ và các tai hại mà chúng sẽ gây ra cho việc hành trì tu tập của chúng ta.
(Xem: 21786)
Chúng ta đã biết đời là vô thường đau khổ, nhưng chúng ta còn cố chấp cái ngã, cái ta, cố bám víu vào cái của ta, thì chúng ta không thể trừ bỏ được kiêu mạn,
(Xem: 15326)
Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoátgiác ngộ tối hậu...
(Xem: 8704)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộVãng sanh khác nhau thế nào?
(Xem: 9408)
Khi đã biết nghiệp báo nhân quả không thể tránh, khủng khiếp như thế, chúng ta phải cố gắng tránh làm ác từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm
(Xem: 7861)
Khảo sát hiện tượng "hội nhập văn hóa" tại một trung tâm Phật giáovị trí quan trọng vào hàng nhất nhì ở thời Lý-Trần như chùa Quỳnh Lâm...
(Xem: 9436)
Ta-bà là chu kỳ của sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu
(Xem: 9486)
Chúng ta sợ đủ thứ: sợ chết, sợ khốn khổ, sợ bị chê bai chỉ trích, và trên tất cả, hình như chúng ta rất sợ sự thật.
(Xem: 10468)
Con người sanh ra trên cõi đời này đã mang theo nghiệp nhân của đời trước, lúc lớn lên lại gây tạo thêm nghiệp mới.
(Xem: 8888)
Tất cả việc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích cho chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo.
(Xem: 14925)
Mặc dù các tôn giáo nhất là Phật giáo đều nhấn mạnh đến vấn đề Nhân Quả - Nghiệp báo, song Luật Nhân quả không phải là của riêng một tôn giáo nào, nó là một luật của tự nhiên
(Xem: 8052)
“Sống Tỉnh Giác” là sống tỉnh chứ không còn ngủ mê nữa. Đây là đi vào thực hành chứ không phải là học, hiểu hay lý luận suông.
(Xem: 8382)
Sau khi trở thành phật tử, có tam qui, ngũ giới rồi, người phật tử phải sống ra sao để an lạc hạnh phúc?
(Xem: 8445)
Tất cả chúng ta đều có duyên lớn được gặp Phật pháp, được học Phật, được có người chỉ đường, có bản đồ sẵn hết rồi, chỉ còn một việc là bước đi để trở về.
(Xem: 8868)
‘Tâm’ là chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là ‘giữ tâm ý trong sạch ’ , ‘
(Xem: 9172)
Chánh Giáo (Tam Bồ Đề_ Sambhodhi) cùng Giải Thoátmục đích chung của Phật và các đệ tử Thanh Văn...
(Xem: 8663)
Cầu xin mà có hiệu qủa, chẳng có ai không cầu, cứ ngồi đó mà cầu nguyện là tự có tất cả, chẳng phải làm việc vất vả, cần gì phải học hành cực nhọc....
(Xem: 8235)
Phật Giáo Ấn ĐộTây Tạng phân loại và hệ thống hóa toàn bộ giáo huấn của Đức Phật thành ba chu kỳ khác nhau gọi là "ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp"
(Xem: 7773)
Con Đường Của Bụt là chủ đề của khoá tu An Cư Kiết Đông năm 2008 - 2009. Đây là con đường Bụt đã đi, và chúng ta đang đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
(Xem: 9944)
con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ.
(Xem: 7960)
Con người luôn sống trong sợ hãi từ hiện tại cho đến vị lai, là do chính mình gây tạo nên bằng những hành động, lời nóiý nghĩ bất thiện
(Xem: 7899)
Kinh điển thường ví giận dữ như một cơn điên. Người điên cuồng không kiềm chế được ý thức nên hành vi, cử chỉ, việc làm gây thương tổn bản thân và người khác.
(Xem: 7000)
Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant