Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“

30 Tháng Mười Hai 201705:47(Xem: 7708)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“
Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ

Thích Như Điển

 

Ngày nay Internet phát triển một cách nhanh chóng và phổ cập khắp nơi trên hoàn vũ, hầu như không có ai là không nghe hay không biết đến phương tiện truyền thông nầy. Rất nhanh và tiện lợi muôn phần. Muốn tra cứu cái gì cũng có, muốn học cái gì cũng không thiếu. Vấn đề là ai đó có đủ can đảm để ngồi suốt ngày bên máy vi tính để đọc chữ trên màn ảnh không? Đó là vấn đề chính. Cứ ngỡ rằng khi máy vi tính phát triển nhanh thì những tổ hợp ấn loát kinh, sách, báo chí sẽ ế ẩm, nhưng đa phần những người lớn tuổi thì thích cầm quyển kinh hay quyển sách bằng giấy trên hai tay, đọc một cách trang trọng, thoải mái hơn và muốn đọc lúc nào cũng được, muốn nghỉ cũng không bị lệ thuộc vào bất cứ điều kiện gì cả. Trong đó có tôi là người chọn lựa cách thứ hai nầy.

Được một nhân duyên lớn là Thượng Tọa Thích Minh Định, Trụ Trì chùa Kim Quang tại Pháp trong 10 năm nay, trước đây Thầy đã tu học tại Vạn Phật Thánh Thành của cố Hòa Thượng Tuyên Hóa, nên tiếng Phổ Thông Thầy rất lão luyện; những kinh sách của Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng như: Nhân sinh yếu nghĩa (1 tập), Chú Đại Bi giảng giải (1 tập), Chú Lăng Nghiêm giảng giải (tập 1 và tập cuối), Kinh Pháp Hoa (1 quyển trọn bộ), Kinh Hoa Nghiêm (8 quyển trọn bộ), Kinh Hoa Nghiêm giảng giải (từ tập 1 cho đến tập thứ 25 trọn bộ). Cứ xem như mỗi tập là một tác phẩm đi, thì Thượng Tọa Minh Định đã dịch sang Việt ngữ tất cả là 44 quyển; có quyển dày đến gần cả 1.000 trang. Thầy đã gửi biếu đến các chùa sau khi đã in ấn, nên tôi mới có cơ hội làm quen với những dịch phẩm nầy của Thượng Tọa. Công đức nầy thật không nhỏ chút nào đối với những người học Phật, mong muốn được rõ biết hoàn toàn qua ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, thì những kinh sách nầy sẽ giúp cho các độc giả xa gần lãnh hội một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn.

Quyển “Nhân sinh yếu nghĩa “tôi đã đọc xong, nhưng không điểm sách, vì lẽ đó là những lời giáo huấn đơn thuần của Ngài Tuyên Hóa cho các đệ tử xuất gia cũng như tại gia trong công việc tu tập hằng ngày tại Vạn Phật Thánh Thành. Đến quyển “Chú Đại Bi giảng giải” thì tôi đã đọc một cách say mê và cũng đã có điểm sách rồi, nhiều trang nhà trên thế giới đã đăng tải bài nầy. Nay sau khi đọc xong hai tập “Chú Lăng Nghiêm giảng giải tập I và tập cuối” trong nhiều ngày, tôi xin cung tuyên lại những gì đã thẩm thấu qua lời giảng giải của Ngài Tuyên Hóa trong suốt 192 trang của tập I (không kể phần được dịch ra tiếng Pháp của Sư Cô Thích Nữ Đàm Như) và tập cuối gồm 572 trang do nhà xuất bản Hồng Đức ở Việt Nam in ấn. Đây là những lời giải thích đầu tiên về Chú Lăng Nghiêm mà tôi biết được kể từ khi xuất gia năm 1964 đến nay 2017 cũng đã hơn 53 năm như thế. Quả là một điều vi diệu vô cùng và cũng trong hơn 53 năm ấy, tôi hành trì Chú Lăng Nghiêm vào mỗi buổi sáng tại chùa hay bất cứ nơi đâu khi tôi đi Phật sự, chưa bao giờ chểnh mảng trong gang tấc. Nghĩa là hầu như ngày nào tôi cũng có hành trì, đọc tụng Thần Chú nầy.

Về Kinh Lăng Nghiêm thì Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (1966-1973) đã biên soạngiảng giải trong bộ Phật Học Phổ Thông khóa 6 và khóa 7 với tiêu đề là: Triết lý Đạo Phật hay là Đại cương Kinh Lăng Nghiêm gồm 264 trang thì tôi đã học, đã giảng suốt 6 tháng trường cho các Phật tử tại gia trong những Đạo Tràng Tu Bát Quan Trai giới tại Đức cũng như ở Âu Châu trong những năm 2015-2016, nhưng chỉ giảng chủ yếu của Kinh Lăng Nghiêm là Phật gạn hỏi về Tâm với Ngài A Nan, nhân việc Ngài A Nan bị nạn của Ma Đăng Già, chứ không giải thích từng câu từng chữ như trong Chú Lăng Nghiêm giảng giải của Ngài Tuyên Hóa. Ngài Tuyên Hóa chia ra 5 đệ, từ đệ nhất đến hết đệ ngũ gồm có 554 câu tất cả, bao gồm 2.620 chữ được phiên âm từ Phạn ngữ ra Hoa ngữ và Thượng Tọa Minh Định đã chuyển dịch ra Việt ngữ một cách lưu loát, thông suốt hoàn toàn. Cứ mỗi một câu Thần Chú, Ngài Tuyên Hóa soạn ra 4 câu kệ để tả những công năngsức lực của Chú, nói ra sự diệu dụng chân thật của Chú. Ngài đã nói: “Tôi tả những bài kệ, đều có quan điểm và sự thấy pháp của tôi, tôi chân thật tả ra, từ trong tự tánh của tôi lưu xuất ra, cũng là sự kinh nghiệmnhận thức tâm thần lãnh hội đối với Chú”. Đọc qua đoạn nầy ở trang 522 của tập cuối, chúng ta thấy rõ được rằng Ngài Tuyên Hóa đã chứng nhập vào Lăng Nghiêm Tam Muội nên Ngài mới thấy được Pháp của chư Phật và từ tự tánh của Ngài đã lưu xuất ra. Thì đây chính là do pháp hành mà có, chứ không phải do pháp học, vì Ngài Tuyên Hóa hoàn toàn không biết Phạn ngữ. Giảng giải Thần Chú Lăng Nghiêm được như thế nầy, thì trên thế gian chỉ có một vị như thế chứ chưa có người thứ hai.

Về công năng của sự hành trì Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm nầy thì Ngài Tuyên Hóa quyết đoán nơi trang 539 rằng: “Mỗi ngày bạn tụng niệm Chú Lăng Nghiêm, thì ít nhất bảy đời làm viên ngoại, trưởng giả giàu có, quần áo, thức ăn uống không thiếu, tất cả hết thảy đều có đủ. Nếu nói về quả vị bậc Thánh hiền, bạn tiếp tục tụng Chú Lăng Nghiêm, tức là phát tâm đại Bồ Đề, không cần phải trải qua ba đại A Tăng Kỳ kiếp mới đắc được pháp thân, cho nên nói: Diệu Trạm tổng trì Bất Động, Chú Thủ Lăng Nghiêm hiếm có trong đời”. Nhưng theo Ngài Tuyên Hóa, muốn được thành tựu như vậy thì ngoài việc trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm hằng ngày, hành giả phải thực hành lục đại tông chỉ như ở Vạn Phật Thánh Thành thì mới mong có kết quả như ý. Đó là: Không cầu, không tham, không tranh, không lợi mình, không ích kỷ và không nói dối. Tất cả cũng từ lời Phật dạy mà ra, nhưng mỗi vị chủ trương thực hành giáo pháp của Đức Phật một cách miên mật khác nhau, tựu chung vẫn dẫn ta đến con đường chứng nhập Thánh quả. Trong Kinh Phật Bản Hạnh (tập 12 của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh) Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng cho chúng ta biết rằng: Ngài Di Lặc tu trước Ngài, nhưng thành Phật sau 5 kiếp, vì lẽ sự phát Bồ Đề tâm và hành Bồ Tát hạnh của Đức Bổn Sư miên mật, liên lục hơn Ngài Di Lặc, nên Bồ Tát Di lặc trong hiện đời Ngài mới chỉ làm Nhứt Sanh Bổ Xứ ở cõi Nội Viên Đẩu Suất mà thôi. Chỉ ngần ấy việc, chúng ta cũng đủ thấy rằng, sự dụng công trong khi tu hành và việc phát Bồ đề tâm sẽ quyết định quả vị của chúng ta cho bây giờ và mai hậu.

Chú Lăng Nghiêm nầy Cố Hòa Thượng Tuyên Hóa đã giảng cho những đệ tử xuất giatại giaVạn Phật Thánh Thành tại Hoa Kỳ hằng tuần từ năm 1979 đến năm 1987. Tổng cộng hơn 8 năm và có hơn 554 lần giảng. Cũng có vài câu Thần Chú Ngài không giảng vì giống nhau như trong đệ tam hội và một vài nơi trong đệ ngũ; đồng thời có lẽ vì thời gian không có hay bận những Phật sự khác cần Ngài giải quyết nên có một số các bài kệ của những câu chú không được Ngài giải thích. Tựu chung, theo Ngài 554 câu Thần Chú nầy đều là những Pháp Hội của Chư Phật và chư vị Bồ Tát cũng như những quỷ vương. Ví dụ như đệ nhất hội, Ngài gọi là “Tỳ Lô Chân Pháp Hội”, nhưng Hội nầy Ngài mới giảng đến câu thứ 54 là Nam Mô Già Xà Câu La Gia, phần tiếp theo cho hết đệ nhất cũng như đệ nhị hội không thấy Ngài giảng; hoặc giả còn một tập giữa nữa mà Thượng Tọa Minh Định chưa dịch? Bắt đầu hội thứ ba Ngài gọi là: Hội Quán Âm hợp đồng; hội thứ tư là Hội Kim Cang Tạng Triết Nhiếp và hội thứ năm là Hội Văn Thù Hoằng Truyền. Riêng phần Thập Chú thì Ngài Tuyên Hóa đã giảng chung với Chú Đại Bi giảng giải rồi. Ngài cũng khẳng định rằng: “Nếu còn một người trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm nầy thì thế giới không bị ma chướng quấy nhiễu và quả đất nầy vẫn còn tồn tại. Cho đến khi nào ở trên thế gian nầy không còn một người nào hành trì Chú Lăng Nghiêm nầy thì ma quái sẽ hiện hình và phá tan sự sống trên quả địa cầu nầy”

Giáo Sư Lê Tự Hỷ, người biết rành Phạn ngữ cũng đã lập luận rằng:“Sở dĩ một số bản kinh văn bằng tiếng Phạn được truyền vào Trung Quốc, sau đó được dịch sang Hán Văn và cuối cùng bản chánh bị thất lạc, có lẽ do bị thủ tiêu. Vì lẽ văn học Trung Quốc, người Trung Hoa luôn tự hào là giá trị cao sâu nhất thế giới, còn những văn học khác, kể cả Phạn ngữ, thuở ấy người Hán gọi là rợ Hồ ở phương Bắc, nên không được lưu truyền”. Lập luận nầy có thể khả dĩ được tin tưởng hơn những lập luận khác xưa nay đã từng có. Ví dụ những học giả Phật Giáo của Nhật Bản, khi nghiên cứu chỉ thấy hai văn bản bằng Phạn văn được dịch sang tiếng Hoa, Nhật và Hàn như Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà, nhưng riêng bản Kinh Quán Vô Lượng Thọ thì không còn nguyên bản Phạn văn nữa, nên họ nghĩ rằng Kinh nầy không phải do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra. Nhưng nếu lập luận như Giáo Sư Lê Tự Hỷ, thì chúng ta có cơ hội để truy nguyên lại từ nguyên ngữ là Phạn ngữ, đã được chính Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng, vì lẽ nhân duyên để nói Kinh Quán Vô Lượng Thọ nầy là Đức Phật hiển thị các thế giới cho Hoàng Hậu Vi Đề Hy, vợ Vua Tần Bà Sa La phát tâm sau khi mạng chung sẽ sanh về một trong những thế giới khác của Đức Phật A Di Đà, mà nơi đó con người không còn luân hồi đau khổ nữa, như việc A Xà Thế đã giam cha mình vào ngục thất để cướp ngôi. Hy vọng một ngày nào đó các học giả sẽ tìm ra được những manh mối nầy để cho người đời sau không còn thắc mắc nữa.

Ở trang 561 Ngài Tuyên Hóa phán rằng: “Nhưng hiện tại vì sao có những vị học giả tào lao (chữ dịch của Thầy Minh Định) và những vị giáo thọ bụi bặm không thừa nhận Chú Lăng Nghiêm là do Đức Phật nói? Vì họ sợ Chú Lăng Nghiêm. Nếu họ thừa nhận là Phật nói, thì họ đứng không vững. Vì họ đều không giữ giới luật, kêu họ thừa nhận thì họ không thừa nhận. Tại sao họ không thừa nhận? Vì họ biết họ làm không được, cho nên họ nói đó là giả, như vậy họ mới có thể tồn tại, có thể nhận lầm mắt cá tưởng là hạt châu. Ở đây bịt tai ăn cắp chuông, làm những việc giả. Con mắt của các vị tức là cái nầy, không kia. Đâu phải Chú Lăng Nghiêm có gì đắc tội với họ, mà họ nói Chú Lăng Nghiêm là giả, họ làm người rồi chẳng tính gì nữa, người khác đã là giả, đã ở đó mặc quần áo của con người, ăn cơm của con người, nhưng làm quyến thuộc của ma vương. Những vị học giảgiáo thọ bụi bặm đó, nếu có bản lãnh thì kêu họ đến đàm luận với tôi (Ngài Tuyên Hóa), nhưng họ lại không dám đến”.

Trên đây là đoạn văn ở phần kết, khi Ngài Tuyên Hóa giảng Chú Lăng Nghiêm sắp xong và Ngài đã cho ta biết học giả là gì và hành giả là gì. Vậy chúng ta tin vào Đức PhậtChư Pháp Sư để từ đó chúng ta hành trì một cách miên mật hơn. Riêng phần tôi sau hơn 53 năm hành trì Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm miên mật như thế, thì tôi nhận định như thế nầy: Thần Chú là để cho Đức Phật và chư Phật hiểu biết lẫn nhau, ngay cả những vị Bồ Tát nghe còn không hiểu, thì làm sao chúng ta có khả năng hiểu được. Nó cũng ví như khi chúng ta dò tầng số của một đài nào đó trong Radio mà chúng ta muốn nghe, nhưng nếu tầng số ấy chưa bắt gặp được thì âm thanh, tiếng nói sẽ chẳng được phát ra và chúng ta chỉ nghe tiếng rè rè của máy mà thôi. Như vậy giữa tâm thức của chúng sanh và tâm của chư Phật, chư Vị Bồ Tát chúng ta chưa hòa nhịp được, nghĩa là chưa bắt đúng được tầng số của nhau thì làm sao chúng ta hiểu được lời của Phật. Nhưng chắc chắn một điều là sẽ có một ngày nào đó, chúng ta sẽ dò đúng tầng số kia để có thể hiểu được những mật ngữ của chư Phật và chư vị Bồ Tát như Hòa Thượng Tuyên Hóa đã hiểu và đã giảng giải cho chúng ta về Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm nầy.

Ngoài ra tôi cũng thường cho những ví dụ khác để dễ hiểu như sau: Kể từ khi chúng ta sinh ra được Mẹ cho uống sữa, sú cơm, ăn cháo, bánh mì v.v…từ khi mới lọt lòng cho đến khi trưởng thành, rồi già, rồi bịnh và chết. Mỗi ngày chúng ta ăn ba bữa chính, ngoài ra còn ăn dặm thêm vào lúc xế chiều. Có cả hằng trăm, hằng ngàn, hằng vạn vạn lần ngồi vào bàn ăn như thế mà có khi nào chúng ta định nghĩa cơm hay bánh mì là gì đâu? Thế mà chúng ta cứ ăn, cứ lớn lên, cứ sống trên đời nầy, nhưng nào ai có quan tâm đến nó làm gì. Nó cũng giống như hơi thở trong từng nhịp đập của con tim; nó như không khí ở trong bầu khí quyển, ngày đêm chúng ta hít thở không biết bao nhiêu lần, nhưng đâu có ai đếm thử chúng ta hít thở bao nhiêu lần trong một ngày, một tháng, một năm đâu? Thế mà chúng ta vẫn sống, vẫn làm việc và vẫn nhận không biết bao nhiêu niềm vui cũng như nỗi buồn của nhân thế nầy.

Tôi cũng thường hay ví dụ trong phần Tam Tự Quy về Tự Quy Y Pháp là: Đương nguyện chúng sanh, thâm nhập Kinh Tạng, trí tuệ như hải. Nghĩa là khi tụng kinh không phải để hiểu mà để thấm vào tâm mình những lời dạy của Đức Phật; còn để hiểu lời kinh khi tụng thì chỉ có những vị đã thâm nhập rồi, còn chúng ta muốn hiểu kinh, cần phải nghe chư vị Pháp Sư giảng giải trước, lúc ấy chúng ta sẽ hiểu rõ và khi tụng kinh, sẽ dễ thâm nhập hơn. Trong 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà, lời nguyện thứ 29 nói rằng: Tụng Kinh đắc tuệ. Nghĩa là người nào trì kinh, niệm chú thật miên mật thì trí tuệ sẽ phát sanh. Điều nầy rất dễ hiểu, nhưng ngày nay người ta chọn pháp học nhiều hơn pháp hành, nên kẻ chứng Đạo ít, người phân tích chủ quan thì nhiều. Nhìn lại lịch sử truyền bá Phật Giáo của Trung Hoa sau cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 cho đến nay ở Đài Loan cũng như Hồng Kông, Việt Nam, Singapore, Hoa Kỳ thì rõ. Các Ngài Giác Quang (Hồng Kông) Ấn Thuận, Bạch Thánh, Ngộ Minh, Tinh Vân, Thánh Nghiêm (Đài Loan), Ngài Diễn Bồi (Việt Nam, Mã Lai); Ngài Tuyên Hóa (Hoa Kỳ) v.v… tất cả các Ngài đều qua công năng hành trì mà tạo nên được những vị thế vững chãi cho Phật Giáo Trung Hoa ở ngoài lục địa kể từ hơn 100 năm nay, hầu như chưa có Ngài nào không qua pháp hànhthành tựu được những sở tu và sở chứng của mình cả.

Riêng tôi chủ trương thì cả Pháp Học và Pháp Hành đều quan trọng như nhau, nên tôi hay nói rằng: “Sự học nó không làm cho người ta giải thoát được, nhưng nếu muốn mở cánh cửa giải thoát kia, không thể thiếu sự tu và sự học được” Đây cũng là tư tưởng của mình và suốt cuộc đời hành đạo của tôi gần 50 năm ở Nhật Bản cũng như tại Đức Quốc đều dựa theo phương châm nầy để tiến tu đạo nghiệp. Tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam trong nước hiện tại có nhiều phân khoa khác nhau để các sinh viên Tăng Ni chọn môn để học trong đó có môn Phật Giáo Việt Nam tại Âu Châu. Khi học như vậy, chắc chắn quý Thầy, Cô sẽ được học về hai khuynh hướng Phật Giáo tại đây. Đó là Phật Giáo truyền thốngPhật Giáo cải cách. Phật Giáo truyền thống luôn lấy hai thời công phu sáng chiều của chư vị Tổ Sư nhiều đời làm căn bản hành trì, đồng thời những quyển Luật Tiểu hay Đại Luật cũng là những giới thể căn bản mà người xuất gia không được phép xao lãng. Khuynh hướng cải cách là khuynh hướng nhập thế, mang Đạo vào Đời và biến đổi kinh văn cũng như giới luật hiện đại hơn để cho người Tây phương dễ hội nhập vào với nền văn hóa của Phật Giáo Việt Nam. Riêng tôi, gần 50 năm nay ở ngoại quốc, tôi vẫn chọn phương pháp truyền thống, bảo thủ cái hay, thu nhập cái tốt để hành trì và hướng dẫn chư Tăng Ni cũng như Phật tử tại Âu Châu nầy, người Việt cũng như người ngoại quốc tu theo Phật Giáo Việt Nam phải trải qua việc học và đọc tụng thuộc lòng Thần Chú Lăng Nghiêm trước khi thế phát xuất gia. Do vậy mà ngày nay chúng ta cũng không lạ gì, tại Âu Châu nầy có rất nhiều người Phật tử tại gia ăn chay trường, thọ Bồ Tát Giới tại giahành trì Chú Lăng Nghiêm miên mật hằng ngày, mặc dầu đang sống đời sống tại gia, nhưng tâm đã hướng đến một đời sống thoát tục.

Mãi cho đến bao giờ truyền thống vẫn là cái gì mà nên khắc ghi, nhắc nhở giống như Ngài Tuyên Hóa. Ngài giảng Chú Lăng Nghiêm bằng tiếng Phổ Thông, người Mỹ, người Việt, người Hoa, người Nhật v.v…muốn hiểu Thần Chú nầy phải  học và nói tiếng Phổ Thông. Nhờ vậy mà quý Thầy người Mỹ đã có thể dịch thẳng Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho  Shinshu Daizokyo) từ chữ Hán sang tiếng Anh, để từ đó những thế hệ đi sau hay sanh ra tại ngoại quốc có cơ hội tiếp xúc với Kinh văn nầy một cách dễ dàng tiện lợi hơn. Riêng Bản Kinh Thiền Môn Nhật Tụng chúng tôi đã cho dịch ra được 8 ngôn ngữ tất cả như: Hán Việt, Hán Cổ, Việt Nam, Đức, Anh, Ý, Nga và tiếng Phạn. Hy vọng trong tương lai sẽ có thêm nhiều ngôn ngữ Tây phương khác nữa được phiên dịch ra, trong đó thêm cả Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm thì thế giới nầy sẽ an ổn biết bao, khi những vị Càn Thát Bà, Dược Xoa, La Sát, các vị Quỷ Vương luôn luôn hộ trì chúng tathế giới nầy sẽ được yên bình thịnh trị. Mong rằng mỗi hành giả hành trì Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm sẽ là những viên gạch vững chắc bằng tâm linh để ngăn chặn cái ác và xiển dương cái thiện trên quả địa cầu nầy.

Viết xong vào lúc 12 giờ ngày 22 tháng 12 năm 2017 tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7901)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
(Xem: 9558)
Chủ đề về tánh không bao hàm tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn và sống trong tánh không)
(Xem: 9589)
Từ Bi, có nghĩa là tình thương yêu rộng lớn đối với muôn loài hữu tình chúng sanh (loài ngườisúc vật). Tình thương rộng lớn này được...
(Xem: 8108)
Pháp thân Phậttánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thânquang minhHóa thân là thân vật chất;
(Xem: 10267)
Thường nghe rằng, cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất; việc gấp trên đường tu, không gì hơn lập nguyện.
(Xem: 8679)
Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên
(Xem: 9130)
Đức Phật có nói: "Như Lai đã đạt đến sự hiểu biết rõ ràng về điều nầy, nghiệp lực, xuyên qua trí huệ cao cả của chính Như Lai."
(Xem: 8978)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, bài giảng đầu tiên của ngài tập trung vào Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), đó chính là nền tảng của Đạo Phật.
(Xem: 8141)
Bốn dấu ấn của hiện hữu, Phạn ngữ gọi là caturlaksana, Pà li ngữ là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 8911)
Chúng ta cần phải quy y Tam bảo để cứu mình ra khỏi đường hiểm khổ đau, đến chỗ an vui giải thoát.
(Xem: 25679)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 9015)
Để phân biệt với người không Phật tử, có sự quy y hay phương hướng an toàn, và để phân biệt với con đường Tiểu thừa, có sự quy y của Đại Thừa.
(Xem: 14364)
"Lý thuyết Nhân tính qua kinh tạng Pàli" là đề tài luận án Tiến sĩ do Thượng tọa Thích Chơn Thiện thực hiện và đệ trình tại Đại học Delhi
(Xem: 8159)
Thưa đại đức! Khi thọ khổ phát sanh, bậc A-la-hán chỉ thọ có một khổ thọ ấy, còn phàm phu thì thọ luôn cả hai thọ khổ, có phải vậy chăng?
(Xem: 8552)
Con số 84.000 trong do ngài An Nan thuật lại trong Trưởng Lão Kệ của Tiểu Bộ chính là 84.000 Pháp tức “dhamma” trong tiếng Pāḷi.
(Xem: 11845)
Đạo Phật không mang đến cho ta tiền tài hay danh vọng mà chỉ cho ta tình yêu thương bất diệthạnh phúc đích thực miên viễn trong dòng khổ đau của nhân sinh
(Xem: 9022)
Theo truyền thống sinh hoạt tu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều...
(Xem: 10320)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người.
(Xem: 8320)
Thức( vijnana) là dòng trôi tương tục dao động sáng tạo với những biểu đồ phức tạp được chi phối bởi những hệ quy chiếu mang màu sắc chủ quan
(Xem: 8926)
Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử).
(Xem: 9934)
Đức Phật Thích Ca đã thường nói về Năm Uẩn, cũng còn được gọi là Năm Tập Hợp, hoặc là Năm Đống Hàng Cao Như Ngọn Núi.
(Xem: 9408)
Dục là nguyên nhân của khổ đau, nguồn gốc của dục có từ vô thỉ, sự trói buộc của nó đối với chúng sanh trong luân hồivô lượng kiếp.
(Xem: 8151)
Từ ngữ Niết Bàn xuất phát từ nguồn có ý nghĩa là "Dập tắt ngọn lửa", để nói đến việc dập tắt đi những ngọn lửa tham lam, sân hận, và si mê (tham sân si).
(Xem: 9444)
Niết bàn được xem là mục đích cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thóat khỏi các kiết sử tùy miên...
(Xem: 8484)
Như tâm, Phật cũng vậy Như Phật, chúng sanh đồng Nên biết Phật cùng tâm Thể tánh đều vô tận
(Xem: 10905)
Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn.
(Xem: 9054)
Con người sinh ra trong thế giớidần dần, ngoài những sự vật đã có trong thiên nhiên, sáng chế ra những sự vật để dùng trong cuộc sống.
(Xem: 10485)
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
(Xem: 8254)
Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại.
(Xem: 10234)
Tất cả các pháp nhân duyên sanh Thể tánh chẳng có cũng chẳng không Ở nơi nhân duyênsanh khởi Trong đó đều trọn không chấp trước
(Xem: 10402)
Nhân sau cùng sinh quả dị thục, Nhân đầu tiên sinh quả tăng thượng, Nhân đồng loại, biến hành sinh quả đẳng lưu, Nhân câu hữu, tương ưng sinh quả sĩ dụng
(Xem: 8957)
Đức Phật thị hiện là một con người như mọi người, điều này khẳng định cho chúng ta biết ngài không phải là thần linh, thị hiện ở núi non kỳ dị.
(Xem: 8204)
Tâm Bồ Đề (skt:Bodhicitta) là tâm giác ngộ, tâm thấy được bản mặt thật của chư pháp, tâm tin nơi nhân quảPhật Tánh nơi chúng sanh cũng như luôn dụng công tu hành hướng về quả vị Phật.
(Xem: 16582)
Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.
(Xem: 12254)
Phật Học Vấn Đáp - Duy Thức Học Phần thứ 8; Lý Bỉnh Nam giải đáp, Thích Đức Trí chuyển ngữ
(Xem: 12193)
Hãy nương tựa vào chính mình, tự xem mình là ngọn đuốc soi đường cho mình, là nơi an trú cho mình, mà không cần một nơi an trú nào khác cả...
(Xem: 8744)
Nguyên tác: Background for Understanding Bodhichitta, Tác giả:Alexander Berzin/ Riga, Latvia, July 2004; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10161)
Giáo thuyết tối thượng tịnh hóa tâm thức, Là việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 8489)
Điều cương quyết để thọ tám chi của Luật nghi này, là phải có tối thiểu một vị Tỷ-kheo làm giới sư truyền thọ, chứ không thể tự một mình phát nguyện thọ trì được.
(Xem: 9022)
Trong Đạo Phật thuật ngữ tự ngã có hai ý nghĩa phải được phân biệt nhẳm để tránh nhầm lẫn. Một ý nghĩa của tự ngã là ‘cá thể’ hay ‘chúng sinh’.
(Xem: 10306)
Có nguồn gốc từ Ấn-độ, là tín lý căn bản trong Ấn-độ giáo, Phật giáo cũng như Kỳ-na giáo, và cả đến đạo Sikh; được truyền vào Trung hoa rất sớm, dịch là nghiệp,
(Xem: 8691)
Cận trụ nguyên ngữ Sanskrit là là upavāsatha, Hán phiên âm là ô-ba-bà-sa, Ưu-ba-bà-tố-đà, Ưu-bà-sa, U-ba-bà-sa, Ô-bô-sa-tha v.v…
(Xem: 8158)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thểxúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề...
(Xem: 8697)
Nguyên tác: Introduction to Bodhicitta - Tác giả: Alexander Berzin/ Riga, Latvia, June 2003 - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8043)
Đẳng lưu nhân-quả, là một trong những tư lương quan trọng trên con đường trung đạo, trong lộ trình tu tập thông đạt chánh kiến về duyên khởi hay mười hai chi duyên.
(Xem: 7818)
Ly Hệ Quả Sanskrit gọi là Visamyogaphala. Visam là thoát ly, tách rời, đoạn trừ, ly khai. Yoga là tương ưng, liên hệ. Nên Ly hệ, visamyoga: dứt khỏi sự trói buộc.
(Xem: 9532)
Tôi đã tìm thấy chìa khóa của hạnh phúc, và tôi đã bị thuyết phục rằng, tôi đã vượt qua mọi nhà sư khác về sự cao quý. Nhưng mỗi khi tôi rời thiền đường, những cánh cửa lại thì-thầm, 'Tất cả là không.'
(Xem: 8683)
Từ nơi Thánh Trí tối thượng ba-la-mật, đức Thế Tôn tuyên thuyết Kinh Năng Đoạn Kim Cương, nên Kinh này dạy rất nhiều vấn đề cốt lõi của giáo Pháp.
(Xem: 10635)
Như lý tác ý (Yoniso manasikàra) hay còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để nói về cách nhìn sự vật hay hiện tượng một cách đúng đắn theo quan niệm của đạo Phật.
(Xem: 15057)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Śīla: học xứ, học giới,... nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể.
(Xem: 12742)
Nếu chúng ta thật sự quan tâm về tương lai chính chúng tahạnh phúc an lạc của chính đời sống của mình, chúng ta nên phát triển một thái độ tinh thần trong điều mà thực hành từ bi đóng một vai trò trung tâm.
(Xem: 8064)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại...
(Xem: 16637)
Chúng ta cũng có thể sử dụng cách dịch phổ thông hiện này là: Như Thị Ngã Văn 如是我聞: Tôi nghe như vậy, tôi nghe như thế v.v...
(Xem: 6213)
“Phật y trên năm hạng chủng tánhthành lập năm thừa: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
(Xem: 9507)
46 đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà...
(Xem: 6987)
Bốn pháp căn bản thành tựu thần lực, bốn cơ sở để có sức mạnh tinh thần hay sức mạnh tâm linh....
(Xem: 7675)
Quán Thế Âm, ngữ nguyên Sanskrit là Avalokiteśvaras, āvalokiteśvaro, avalokiteshvara là danh từ số ít Phạn ngữ, Hán dịch là Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại.
(Xem: 6983)
Thành Duy Thức Luận trình bày hai quả chuyển y là Đại Niết-bàn và Đại Bồ Đề; Do đoạn trừ hết thảy các chướng mà thành tựu hai quả vị thù thắng này.
(Xem: 7660)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22376)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant