Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luân Hồi Trong Kinh Lăng Nghiêm

30 Tháng Sáu 201823:14(Xem: 6848)
Luân Hồi Trong Kinh Lăng Nghiêm

9.Bia Lang Nghiem-TN Gioi Huong
MỤC LỤC

 

Lời cho lần tái bản thứ 5 

Lời đầu................................................................................. ii

Chương I: Bối cảnh Phật giáo................................................ 1

Chương II: Nhân duyên  nói kinh....................................... 20

Chương III: Gạn hỏi cái tâm ................................................ 30

Chương IV: Hai cội gốc thường trụ và lưu chuyển…..…40

 Chương V:Thiết lập hai điều nạn hỏi................................. 70

Chương VI: Pháp Sa-ma-tha............................................... 126

Chương VII: Giới thủ lăng nghiêm................................... 164

Chương VIII:Năng lực thần chú....................................... 199

Chương IX: Mười hai loài chúng sanh............................. 206

Chương X:Ba tiệm xứ......................................................... 236

Chương XI: Những tập khí sanh ra bảy đạo.................... 262

Chương XII: Mười tập nhân địa ngục.............................. 279

Chương XIII: Sáu giao báo................................................. 301

Chương XIV: Cõi tiên, Trời và A-tu-la.............................. 337

Chương XV: Kết khuyến..................................................... 359

 

 

LỜI TÁC GIẢ CHO 

LẦN IN THỨ NĂM, 2018

 

Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức, Tp. HCM, Việt Nam.

Trong lần in thứ năm này, tác giả vẫn giữ lại nội dung như lần đầu ra mắt. Tuy nhiên, để sách hữu dụng và phục vụ tốt hơn, kỳ này nhiều lỗi được chỉnh sửa, có thêm hình xen kẽ, thuật từ Pali với Phạn được đính kèm, và có thêm phần tóm gọn và các câu hỏi đàm luận ở cuối mỗi chương và đặc biệt sách được chuyển ngữ sang tiếng Anh “The Rebirth Views in ŚūraṅgamaSūtra”.

Tác giả muốn đặc biệt tri ân Tỳ-kheo-ni Viên Quang đã giúp tác giả trong việc trình bày, xuất bản cũng như phát hành sách.

Trường Đại Học Riverside, Tiểu bang Cali, Hoa Kỳ

Mùa thu, ngày 07 tháng 10 năm 2017

Bhikkhunī Tiến Sĩ TN Giới Hương

 

Lời giới thiệu

   Sách “ Luân Hồi trong Kinh Lăng Nghiêm” 

của Ni sư Thích Nữ Giới Hương biên soạn

 

Tôi được một phước duyên là quen biết với nhiều kinh sách. Đây là những người Thầy, người bạn rất thân thiết, thân thiết hơn cả những người thân trong gia đình hay bạn bè thân nhất của mình. Vì những người thân của mình muốn gặp cũng phải hẹn nhau trước, còn kinh sách thì mình tha hồ mà gặp gỡ bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Sáng, trưa, chiều, tối hay giữa đêm khuya thanh vắng với ánh trăng vàng tỏ rạng bên song cửa sổ nơi thiền thất, nếu ta muốn sách sẽ ở ngay trước mặt ta, thật là tự tại thoải mái vô song! Cần gì, cứ giở kinh sách ra là có ngay câu trả lời. Còn đúng sai, tốt xấu là do mỗi người tự gạn lọc lấy để làm chất liệu dinh dưỡng tâm linh cho mỗi người trong chúng ta. Sách, kinh vốn không có tội tình gì cả. Nếu có, chỉ do người hiểu và xử dụng sai mụdac đích mà thôi.

Từ việc ham đọc kinh, sách sinh ra việc viết sách, dịch kinh, viết lời bàn hay những truyện ngắn, truyện dài nên được nhiều người quen biết và từ đó có nhiều người nhờ tôi viết lời giới thiệu sách do họ viết hay dịch thuật. Và họ là những Tăng Ni, có khi là những người thế tục, trong đó có Ni sư Thích Nữ Giới Hương. Ni sư nhờ tôi viết lời giới thiệu cho lần tái bản quyển “Luân Hồi trong Kinh Lăng Nghiêm” này. Đây là tác phẩm thứ 9 của Ni sư và đã được xuất bản lần đầu tiên năm 2008, đến nay trải qua 9 năm đã tái bản đến 4 lần và mỗi lần xuất bản chắc không dưới 2.000 quyển. Độc giả đa phần ở Việt Nam và một vài nơi trên thế giới. Tái bản lần nầy Ni sư nhờ tôi viết lời giới thiệu, nên tôi phải cố gắng đọc gấp trong hai ngày, mỗi ngày 6 tiếng đồng hồ. Thông thường với những quyển kinh, sách dày chừng 356 trang như quyển nầy, tôi chỉ cần đọc trong 3 đến 4 tiếng đồng hồ là có thể gấp sách lại được, nhưng vì Ni sư có nhờ tôi xem kỹ, cũng như có thể điều chỉnh lại một vài lỗi chính tả, nên phải tốn nhiều thời gian như vậy. Tuy không có lỗi nào đáng phàn nàn, chê trách, nhưng vì nội dung của Kinh quá thâm sâu, nên tôi phải cần có nhiều thời gian để đọc và chiêm nghiệm lâu như vậy.

Đọc lời tựa của lần xuất bản thứ nhất cũng như tái bản lần nầy, chúng ta thấy Ni sư đã học Kinh nầy từ Ni Trưởng Hải Triều Âm trong những năm 1984, 1985. Sau đó Ni sư còn học 4 năm tại Học viện Vạn Hạnh, rồi sang Ấn Độ ở hơn 10 năm để lấy bằng Tiến sĩ Văn học Phật giáo tại đó. Kế tiếp là 10 năm học ở Đại học tại Riverside Hoa Kỳ, để rồi hôm nay đang đứng trên bục giảng của Đại học Phật giáo tại Việt Nam, trao truyền những kiến văn mà mình đã thu thập được qua việc tu, học trong hơn 30 năm qua cho các Tăng, Ni Sinh trẻ. Thật là một phước báu vô ngần. Không dừng lại ở đó, Ni sư còn dịch quyển sách nầy ra Anh văn nữa. Đây cũng có thể nói là sự tiến bộ đầu tiên của Ni giới Việt Nam, kế tiếp con đường văn hóa của Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải đã kinh qua. Riêng tôi rất vô cùng hoan hỷ để viết nên lời giới thiệu nầy.

Để đi vào nội dung của 15 chương sách, đầu tiên chúng ta có thể lưu ý qua hình thức trước. Những chữ in đậm là lời Kinh đã được Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám dịch từ Hán Văn sang Việt Văn, nguyên tác của Ngài Bát Thích Mật Đế dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán. Bác sĩ Tâm Minh dịch quyển nầy và diễn giải thành 2 tập gồm 10 quyển, nhưng ở đây Ni sư chỉ chú mục vào phần gạn hỏi tâm, sáu căn, sáu trần và sáu thức cũng như việc giữ giới sẽ sanh định, định sanh tuệ. Tiếp theo nói về 12 loài chúng sanh do 3 thời quá khứ, hiện tạivị lai nhân cho  4 hướng Đông Tây, Nam Bắc để có con số 12 nầy. Chương nầy rất đáng đọc. Vì lẽ Ni sư vừa học Nikaya vừa học tinh thần Kinh điển của Đại Thừa, nên những mẩu chuyện được kể lại theo những câu chuyện đã được học, được nghe qua, rất thâm trầm, ý vị. Từ đó có những dẫn chứng rất khoa học và khúc chiết.

Phần trong ngoặc gồm chữ Phạn và Pali là do Ni sư sưu tầm. Phần chữ nghiêng dùng để chú thích những gì muốn làm sáng tỏ thêm ý câu văn ấy. Ngoài ra còn những chú thích bên dưới những trang sách về những phần đã dẫn chứng bên trên. Đây là lối mà những học giả thường hay ứng dụng khi dạy học hay viết sách, dịch kinh. Phần chữ lợt hơn là những lời bàn hay giải thích nội dung của đoạn kinh văn vừa trích. Như trong phần mở đầu Ni sư có gởi gắm đến độc giả là chỉ thực hiện một phần nhỏ về luân hồi trong Kinh Lăng Nghiêm mà thôi, những phần nghiên cứu khác về Lăng Nghiêm chắc chúng ta phải chờ quyển 2, quyển 3 mới có thể đọc hết tư tưởng của Kinh Lăng Nghiêm được.

Về nội dung thì quá tuyệt vời qua những dẫn chứng về Tâm và Tánh. Thể của Tâm là Diệu và Tánh của Tâm là Minh. Tâm của chúng sanh vốn bị vô minh phiền não che đậy, còn Tánh của Tâm vốn sáng suốt hoàn toàn, nếu chúng sanh dựa vào Sa Ma Thatu chứng Tam Ma Đề thì Phật và chúng sanh là một chứ không có khác. Điều nầy nó cũng giống như sóng và nước. Sóng không phải là nước, nước không phải là sóng, nhưng cả hai đều có một tánh ướt là chung. Với tánh ướt đó, Phật đã thành Phật từ lâu rồi, mà chúng ta vẫn còn mãi mê trong vòng sanh tử, vì chưa nhận ra được tánh ướt của mình. Mỗi khi tụng Kinh chúng ta hay xướng lên rằng: Phật, chúng sanh Tánh thường rỗng lặng…là ở ý nầy. Phật không khác chúng sanh, chỉ có chúng sanh khác Phật mà thôi. Chúng sanh là do nghiệp báochánh báo mà hình thành, còn thế giới nầy là Y báo. Y Chánh có trang nghiêm hay không là do nơi chúng sanhvứt bỏ được màn vô minh hay không để trở về lại với Phật Tánh chứ không phải do Phật. Phần đầu Đức Phật gạn hỏi Tâm của Ngài A Nan qua 7 lần cũng vì cái Tánh nầy. Khi đã rõ biết được ngôi nhà tâm linh của 6 căn rồi, nhưng không biết làm sao để mở cửa vào, nên Ngài A Nan đã đại diện cho chúng sanh để thỉnh Phật dạy tiếp.

Sáu căn ấy chính là sanh tử, mà sáu căn ấy cũng chính là Niết Bàn tịch tĩnh. Nếu chúng sanh tu chứng được Tam Ma Đề của Đức Phật dạy thì mới có thể trừ ba Tiệm thứ được. Trong 12 bộ Kinh như: Trường Hàng, Trùng Tụng, Thọ Ký, Cô Khởi, Vô Vấn Tự Thuyết, Nhân Duyên, Thí Dụ, Bản Sanh, Bản Sự, Phương Quảng, Vị Tằng Hữu, Nghị Luận đã được Ngài Thiên Thai Trí Giả Đại Sư phân chia ra làm 5 thời giáo của Đức Phật, mà tác giả đã giới thiệu rất cặn kẽ rồi. Mong Quý độc giả cứ từ từ thâm nhập thì sẽ thấy những quan điểm của Đại Thừa được làm nổi bật qua những chứng minh trong Kinh Lăng Nghiêm nầy. Ngay cả tư tưởng Tịnh Độ qua phần tha lực niệm đến danh hiệu của Đức Phật A Di Đà, cũng đã được Ni sư gửi gắm trong những trang sách nầy.

Đến phần nội phận là tình, ngoại phận là tưởng, Ni sư cũng giúp cho độc giả nắm bắt dễ dàng ý kinh hơn. Ai tình nhiều tưởng ít thì sau khi lâm chung thần thức sẽ đi xuống, ai tưởng nhiều tình ít thì thần thức sẽ đi lên. Ai tình và tưởng bằng nhau thì sẽ tái sanh trở lại làm người. Tiếp đến nói về quả báođịa ngục, có 10 nhân và 6 quả để lãnh thọ hậu báo nầy. Kế đó  là những dư báo của chúng sanh trong nhiều kiếp trước. Tác giả cũng đã nêu ra những câu chuyện của Bửu Liên Hương Tỳ Kheo Ni phạm giới dâm hay câu chuyện của Vua Lưu LyTỳ Kheo Thiện Tinh (xin xem thêm ở Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 2 thì sẽ rõ hơn). Tất cả chỉ là sự kết đọng của vọng tưởng giả dối. Nhân đây Phật dạy cho phép Sa Ma ThaĐức Phật cũng nhấn mạnh rằng chỉ khi nào có Phật ra đời thì mới có thể trừ khỏi được.

Chương thứ 14 nói về cõi Tiên và Trời A Tu La. Từ 6 cõi Trời của Dục Giới lên đến Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ ThiềnNgũ Tịnh Cư của Sắc Giới cho đến 4 cõi của Vô Sắc Giới, tác giả đã diễn giải rất rõ ràng. Cuối cùngcõi A Tu La vừa là Thiện Thần mà cũng vừa là Ác Thần. Chương thứ 15 là chương kết của quyển sách nầy, Ni sư đã tóm gọn lại tất cả bảy loài chúng sanh (Trời, Tiên, A Tu La, Người, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh) đều xa rời tánh giác, vì không thực hành Sa Ma Tha và nếu bỏ đi được 3 hoặc (sát, đạo, dâm) thì sẽ thấy được Phật Tánhcuối cùng Ni sư tóm gọn lại rằng: “Luân Hồi trong Kinh Lăng Nghiêm” có những điểm chính là nói về sát, đạo, dâm và ngược lại với những điểm nầy là làm sao từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cướp, từ bỏ tà dâm để nhận ra được tánh Phật của mình.

Nhìn chung thì đây là một quyển sách đáng đọc, lại do một Ni sư học thức bình chú và quý độc giả cũng nên làm quen với sách nầy trước khi đọc “Kinh Lăng Nghiêm Tông Thông”  của Ngài Nhẫn Tế Thiền Sư gồm 2 quyển, dày độ 2685 trang hoặc “Giảng giải Chú Lăng Nghiêm tập 1 và tập 2”  do Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng tại Vạn Phật Thánh Thành và Thượng Tọa Minh Định đã dịch ra Việt ngữ rất trôi chảy. Riêng tôi đã căn cứ nơi Phật Học Phổ Thông của Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa quyển 6 và quyển 7, mỗi quyển gồm 8 bài và tôi đã giảng trong nhiều năm như vậy, ít nhất cũng trên 40 lần giảng và mỗi lần độ một tiếng rưỡi đồng hồ. Đồng thời quý vị cũng có thể tham cứu thêm quyển “Kinh Thủ Lăng Nghiêm trực chỉ” của Ngài Hàn Thị sớ giải và Ni sư Thích Nữ Thể Dung đã dịch giải rất tuyệt vời qua gần 1.000 trang kinh được xuất bản tại Việt Nam vào năm 2008. Quý vị có thể tham cứu trên những trang mạng để xem, nghe và bổ túc thêm cho những gì cần hiểu.

Tôi rất hoan hỷ để đọc tác phẩm nầy của Ni sư Giới Hương, vì đây là món quà quý giá nhất so với những món quà tinh thần khác. Bởi lẽ: “Nếu người ta có tiền, người ta có thể mua được một vài quyển sách, nhưng người ta không thể mua sự hiểu biết được “(If you have some money, you can buy some books, but you can not buy your understanding). Xin trân trọng giới thiệu tác phẩm giá trị nầy đến với Quý độc giả khắp năm Châu.

Viết xong vào một sáng mùa Thu tại Tu viện Viên Đức, Ravensburg thuộc miền Nam nước Đức 

Ngày 14 tháng 10 năm 2017.

Thích Như Điển - Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác, Hannover và Tu Viện Viên Đức, Ravensburg, Đức Quốc.

 

 

LỜI ĐẦU

 

Có một đêm, Đức Phật (Buddha)đứng lặng lẽ trầm mặc bên dòng sông bạc. Tôn giả Xá Lợi Phất (śāriputra, Sāriputta)cũng đứng phía sau và nhìn xuống ánh trăng lung linh óng ánh trên mặt nước, bất giác tôn giả buồn bã than rằng:

- “Bạch đức Thế Tôn! Thật đáng thương thay! Có những kẻ mò trăng đáy nước đến nổi chết chìm”. 

Đức Phật ôn tồn đáp: 

- “Đúng thế! Thật đáng thương xót! Nhưng đáng thương hơn nữa là những kẻ chấp rằng vũ trụ không trăng”.

Có người tìm trăng đáy nước, thấy ánh trăng lung linh ảnh hiện trên mặt nước, nên lao đầu xuống nước mò kiếm, nhọc sức luống công mà còn cái khổ phải bị chết chìm mà không biết rằng rất đơn giản chỉ cần ngước đầu lên thì sẽ thấy được ngay chị Hằng xinh đẹp thật. Rồi lại có người cho rằng trên đời không có trăng dù rằng mặt trăng tròn vằng vặc vẫn đang toả ánh sáng huyền diệu bao trùm vũ trụ không gian đó... Đây là những người thật đáng thương, trong kinh Thủ Lăng Nghiêm (Śūraṅgama  Sūtra)  gọi là những chúng sanh luân hồi.

Trong chương I, đoạn III, Phần Chỉ hai thứ cỗi gốc mê (avijjā)và ngộ (Nibbāna, Prajñā), Phật bảo Tôn giả A-nan: 

“Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay điên đảo nhiều cách, giống nghiệp tự nhiên nhóm lại như chùm quả ác xoa. Những người tu hành không thành được đạo vôthượng Bồ đề, đến nỗi lại thành Thanh văn, Duyên giác hoặc thành ngoại đạo, chư Thiên, Ma vương, hay bà con Ma, đều do không biết hai chữ cỗi gốc, tu tập sai lầm, cũng như nấu cát mà muốn thành cơm, dầu trải qua nhiều kiếp như vi trần, rốt cuộc vẫn không thể thành được. Thế nào là hai thứ cỗi gốc? 

A-nan, một là cái cỗi gốc sống chết vô thỉ, tức như thầy ngày nay cùng các chúng sanh dùng cái tâm phan duyên mà làm tự tánh

Hai là cái thể bản lai thanh tịnh Bồ đề Niết bàn (Nirvāṇa, Nibbāna) vô thỉ thì như hiện nay cái tánh bản minh thức tính của thầy, sanh ra các duyên mà bị bỏ rơi. Do các chúng sanh bỏ rơi cái bản minh ấy nên tuy cả ngày sống trong tính bản minh mà không tự giác, oan uổng vào trong lục đạo”[1].

Kinh Thủ Lăng Nghiêmlà một bộ kinh thuộc hệ tư tưởng thượng thừa liễu nghĩa, có rất nhiều tư tưởng thâm áo ẩn tàng trong kinh. Như một vườn hoa có rất nhiều hoa nở đẹp, tuyệt đẹp nhất là hoa cúc trắng tinh khiết nói về Tạng tánh Như-Lai-Tạng (Tathãgatagarbha-the source of all phenomena) , hoa cúc vàng nói về mặt luân chuyển của thức tinh nguyên minh và nhiều hoa khác nữa. Nội dung cuốn sách nhỏ này chỉ nói về mặt ý nghĩa ‘luân hồi’ mà trong kinh Thủ Lăng Nghiêmcó đề cập đến, như người làm vườn chỉ xin nhặt hoa cúc vàng để mời người xem; còn hoa trắng chỉ xin giới thiệulướt qua, đợi đủ thắng duyên sẽ tiếp tục ra mắt một tác phẩm khác về ý nghĩa này.

Con thành tâm hướng về Đại Ninh, Việt Nam, xin đê đầu đảnh lễ trên Tôn sư Hải Triều Âm, người đã hết lòng truyền trao cho chúng con nghệ thuật của người làm vườn từ những năm 1983, 1984 và 1985; người đã trao những hạt giống chắc tốt của Tứ niệm xứ (satipaṭṭhāna-sutta)và Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Sūtra)  cho chúng con. Hôm nay giống đã ra hoa. Nếu chúng con có được chút công đức phước thiện nào trong cuốn sách nhỏ này, xin kính dâng trên Thầy và pháp giới chúng sanh.

Lòng dạt dào tràn đầy những cống hiến, nhưng sự giác tỉnhnăng lực thì còn yếu kém quá, kính trông mong các thiện tri thức từ bi chỉ dạy cho những lỗi lầm sai sót, để lần tái bản sau sách được hoàn mãn hơn.

Thành kính tri ân.

 

Mùa thu lá đỏ tại WI, ngày 30 tháng 8 năm 2008

                   Thích Nữ Giới Hương


  1  Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tâm Minh biên dịch, NXB Tổng hợp Tp HCM, 1999, tr. 68.

Xem sách đầy đủ hình ảnh tại đây

1.Cover Rebirth in Suragama - TN Gioi Huong
 Xem thêm bản tiếng Anh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7811)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7855)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 8974)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 26163)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13832)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 27994)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19866)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7786)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7629)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
(Xem: 7491)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 8052)
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là hiện hữu... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 9761)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lýthực tiễn.
(Xem: 22766)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 16945)
Khi Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ bày rõ ràng, cặn kẽ cho người xuất gia cũng như người tại gia ở từng địa hạt một của tâm linh... HT Thích Như Điển
(Xem: 8571)
Đức Phật A Di Đà không tự làm cho tội của chúng sanh tự tiêu hủy, mà cảnh giới của Ngài là nơi những chúng sanh ấy có thể nương nào đó để tồn tạitiến tu thêm nữa... HT Thích Như Điển
(Xem: 10419)
Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích... Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Xem: 10598)
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo...
(Xem: 11292)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
(Xem: 9915)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
(Xem: 10584)
Muốn được giải thoát, trước hết chúng ta phải quan sát sự vật một cách thật cặn kẽ để có thể biết được và hiểu rõ bản chất thật sự của chúng.
(Xem: 12725)
Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối.
(Xem: 8811)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
(Xem: 19885)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20855)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21410)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13470)
Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật.
(Xem: 10583)
Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh...
(Xem: 9559)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh...
(Xem: 26793)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 10762)
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng...
(Xem: 12148)
Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng, không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã)...
(Xem: 30934)
Đây là bộ sách trích lục những từ ngữ trong phần “Chú Thích” và “Phụ Chú” của bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC do chúng tôi soạn dịch...
(Xem: 14154)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
(Xem: 11161)
Môn Nhân minh học Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là chìa khóa của mọi thành công ở đời.
(Xem: 11105)
Ý thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại.
(Xem: 11256)
Đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộgiải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
(Xem: 11647)
Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
(Xem: 12755)
Để dạy Vô ngãVô phân biệt trong khi hành động theo cách phân biệt kỳ thị là không phù hợp lời nói với hành động.
(Xem: 24081)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 14933)
Hiện tại là giờ phút duy nhất mà mình có thể chọc thủng được bức màn thương đau, bức màn vô minh để có thể tiếp xúc được ngay với an lạc, với hạnh phúc, với tuệ giác.
(Xem: 11657)
Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp.
(Xem: 20276)
Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).
(Xem: 10622)
Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự...
(Xem: 10394)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
(Xem: 12294)
Xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm...
(Xem: 11513)
Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế).
(Xem: 14306)
Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.
(Xem: 11963)
Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may.
(Xem: 24653)
Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc...
(Xem: 12364)
Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành Phật Giáo...
(Xem: 22304)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 12577)
Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt.
(Xem: 12728)
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.
(Xem: 12646)
Đã là người đệ tử thì chúng ta phải tin và hành theo lời dạy của Phật, đó mới đúng là người đệ tử chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa trọn vẹn.
(Xem: 16832)
Có một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống...
(Xem: 13771)
Bất cứ một hiện tượng nào được phát sinh ra cũng đều phải nhờ vào một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện...
(Xem: 13057)
Cách tốt nhất để vượt thắng những điều không may, hay những thứ xui xẻo hãy tự mình làm nên những công đứcthiền quán về tánh không...
(Xem: 13523)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12616)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14509)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant