Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Điểm Của Thiền Định Khám Phá Tâm Thức Thần Bí Nhất - Chương 9

20 Tháng Bảy 201804:52(Xem: 5604)
Tâm Điểm Của Thiền Định Khám Phá Tâm Thức Thần Bí Nhất - Chương 9
TÂM ĐIỂM CỦA THIỀN ĐỊNH
Khám phá tâm thức thần bí nhất
  
Đức ĐẠT-LAI LẠT-MA
Hoang Phong chuyển ngữ

TÂM ĐIỂM CỦA THIỀN ĐỊNH 2TÂM ĐIỂM CỦA THIỀN ĐỊNH 1 
 
Chương 9

 

    

 

Bìa sách ấn bản tiếng Anh (2016) và tiếng Pháp (2017)

 

                                                                                               

Mục lục

 

 

            RigpaLhaksam: Hai món quà của Đức Đạt-lai Lạt-ma hiến tặng cho thế giới:

            Lời tựa của Sofia Stril-Rever...........................................................................

            Lời tựa của Jeffrey Hopkins  ..........................................................................

                                                                                   

 

                                                                                   

Phần thứ nhất

Con đường Phật giáo

 

            1. Vài nhận định..............................................................................................

            2. Lòng từ bi nhân ái.......................................................................................

            3. Thiền định...................................................................................................

            4. Trí tuệ..........................................................................................................

 

 

Phần thứ hai

Dẫn nhập về phép Đại hoàn thiện

 

            5. Căn bản chung của tất cả các học phái Phật giáo Tây Tạng).........................       

            6. Tâm thức tự tại của ánh sáng trong suốt........................................................

           

 

 

Phần thứ ba

Bình giải về

Ba chữ đánh thẳng vào điểm chủ yếu

của Patrul Rinpoché

 

            7. Giáo huấn thứ nhất........................................................................................

            8. Con đường tối thượng của sự nghỉ ngơi.......................................................

            9. Tinh thần vajra hay "lòng nhân ái toàn cầu".................................................

            10. Giáo huấn thứ hai........................................................................................

            11. Con đường thăng tiến tuần tự......................................................................

            12. Giáo huấn thứ ba: Sự giải thoát tự nhiên.....................................................

            13. Tính cách đồng nhất của cả ba giáo huấn....................................................

           

Phần thứ tư

Đối chiếu giữa hai học phái:

dịch thuật xưa và dịch thuật mới

 

            14. Cấu trúc căn bản của học phái dịch thuật xưa trong phép Đại hoàn thiện...

            15. Lời khuyên của tôi.......................................................................................

 

            Phụ lục..............................................................................................................

            Thư tịch chọn lọc.............................................................................................

 

 


 

PHẦN THỨ BA

 

Bình giải về Ba chữ đánh thẳng vào điểm chủ yếu

của Patrul Rinpoché

 

***

 

 

Chương  9

 

Tinh thần Vajra và "lòng nhân ái toàn cầu"

 

 

            Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt" (universellement bon/universally good) hoặc cũng được gọi là "Tâm-thức-anh-hùng không-khởi-thủy và không-chấm-dứt" (l'esprit-héros du non-commcement et de la non-fin/hero spirit of non-beginning and endlessness). Tâm thức mang bản chất vajra/kim cương đó tinh khiết từ khởi thủy và mang tính cách tự phát (spontaneous),  là nền tảng tạo ra tất cả mọi hiện tượng trong sự hiện hữu chu kỳ (luân hồi) và cả nirvana/niết bàn. Ngay cả đối với một cá thể còn là một chúng sinh bình dị, và vẫn tiếp tục tạo ra vô số các khái niệm, tốt cũng như xấu, phản ảnh sự thèm khát, hận thù, hoang mang, thế nhưng tâm thức vajra/kim cương vẫn không bị ô nhiễm bởi các sự thoái hóa đó (tức hận thù, thèm khát, v.v.). Nước có thể đục ngầu vì dơ bẩn thế nhưng bản chất [nguyên sinh] của nó vẫn là sự trong trẻo, bụi bặm không thể làm bản chất bị ô uế. Cũng vậy dù bất cứ một xúc cảm đớn đau nào tạo ra bởi sự phát tán của tâm thức vajra/kim cương, và dù xúc cảm đó có gay gắt cách mấy đi nữa, nhưng tâm thức thần bí ấy và cũng là nền tảng tạo ra các sự hiển hiện đầy biến động (đa dạng) đó không hề bị lu mờ hay thoái hóa. Tâm thức thần bí đó từ những thời gian không khởi thủy luôn tinh khiết và "hoàn-toàn-tốt".

 

 

HÃY HƯỚNG SỰ CHÚ TÂM VÀO KHÔNG GIAN

 

 

            Một trong các phương pháp luyện tập của Đại hoàn thiện là hướng tri thức vào đôi mắt (sự quán thấy của mắt), và sau đó thì từ mắt vào không gian. Cách luyện tập này rất hiệu quả bởi vì tri thức thị giác (là một trong 5 thể loại tri thức cảm giác gồm: tri thức thính giác, vị giác...) rất mạnh do đó có thể sử dụng nó vào việc hành thiền ("mắt" giúp mình trông thấy thế giới và cả "bên trong" chính mình, do đó các cảm nhận của nó rất phong phú, hơn hẳn các giác quan khác như mũi, lưỡi..., sự phong phú đó mang lại cho mình thật nhiều dữ kiện để suy tư và tìm hiểu). Điều đó không nhất thiết có nghĩa là nhìn vào thế giới bên ngoài là những gì hoàn toàn khác biệt [với bên trong chính mình] mà đúng hơn là nhìn vào khoảng không gian chuyển tiếp (trong nguyên bản là chữ intermediate/trung gian, tức không hẳn là bên ngoài mà cũng không hẳn là bên trong. Thế giới bên ngoài phản ảnh từ bên trong nội tâm, và nội tâm cũng là nguồn gốc tạo ra thế giới bên ngoài, do đó tầm nhìn của một người hành thiền liên kết giữa hai thế giới trong và ngoài). Mặc dù các học phái thuộc truyền thống dịch thuật mới công nhận là có một sự tương đồng giữa không gian trống không bên trong [nội tâm] và không gian trống không bên ngoài, giữa sự Giác ngộ bên trong (tức là quán thấy được thực thể của chính mình) và sự Giác ngộ bên ngoài (tức là thấu triệt được bản thể đích thật của thế giới), thế nhưng điều đó không có nghĩa là không gian bên ngoài là một thứ gì đó hoàn toàn khác hẳn [với không gian bên trong]. Thật ra, không gian bên ngoài cũng chỉ là biểu tượng (symbol) của không gian bên trong (đã được giải thích trên đây).    

 

            Nếu muốn thực thi phép luyện tập đó thì trước hết các bạn phải vươn thẳng người lên và không để tâm thức bị xao lãng. Hướng tri thức vào đôi mắt mình, và sau đó là từ mắt hướng vào không gian. Không được để bất cứ một hình thức nắm bắt mang tính cách khái niệm nào hiện ra làm ô nhiễm tâm thức mình. Hãy "trụ" (establish/tập trung, thiết đặt) thật vững chắc vào thực thể của sự tinh khiết căn bảntính cách trong sáng của tâm thức thần bí nhất

 

 

NHẬN BIẾT TÂM THỨC THẦN BÍ NHẤT

 

 

            Sự "quán thấy" (tức là sự khám phá hay nhận diện được tâm thức thần bí nhất, đã được trình bày trong các chương 7 và 8) có nghĩa là nhận biết được tâm thức thần bí nhất qua sự cảm nhận của chính mình, và khi đã cảm nhận được nó thì phải tiếp tục giữ sự tập trung tâm thần và cùng hòa nhập với sự cảm nhận ấy. Ngoài sự nhận thức về bản thể hoàn toàn thuộc bên trong, thì không có bất cứ một gì khác thuộc bên ngoài để mà khám phá cả (hoàn toàn tách rời mình với thế giới). Chẳng qua là vì các bạn phải nhận diện cho bằng được thực thể của tâm thức thần bí nhất đó hiện hữu một cách trọn vẹn bên trong các bạn, hầu khơi động nó, cảm nhận được nó và an trú bên trong nó. Patrul Rinpoché nêu lên điều đó qua câu thơ sau đây: "Hãy xác định (nhận diện) ngay tâm thức thần bí nhất ấy của Dharmakaya/Thân Đạo Pháp. Thực thể đó, hãy nhận biết được nó bên trong chính mình - đấy là giáo huấn thứ nhất". Thực thể đó từng hiện hữu bên trong các bạn một cách tự nhiên từ những thời gian không khởi thủy, không cần phải tái tạo lại. Bắt đầu từ thời điểm này hãy nhận diện nó từ bên trong chính mình, đúng với nó là như thế.  

 

            Các phương pháp luyện tập giúp mình phát hiện được sự "quán thấy" không phải là dễ (thường là phải nhờ vào các nghi lễ thụ giáo và một người thầy), phải cần đến một vị Lạt-ma nhiều kinh nghiệm, tuy nhiên người đệ tử cũng phải nhiệt tình và tin tưởng. Giáo huấn của Đại hoàn thiện cho biết rằng các bạn không thể nào đạt được sự giác ngộ bằng một tâm thức giả tạo (artificial/hời hợt). Vì thế trước hết các bạn phải nhận biết được tâm thức thần bí nhất và thấu triệt được rằng tất cả mọi hiện tượng cũng chỉ là những gì phản ảnh từ sự phát tán của nó, và sau đó là phải thường xuyên tập trung vào một điểm duy nhất là chính nó.

 

            Phép luyện tập trên đây là một trong các phép luyện tập mạnh nhất, không đòi hỏi phải liên tục xướng đọc các câu man-tra, tụng kinh triền miên, hay tuân thủ các nghi thức nào cả. Tất cả mọi hình thức tu tập khác đều là giả tạo, có nghĩa là phải cần đến sự cố gắng (khi nhìn lại sự tu tập của mình một cách khách quan và bình tĩnh thì đôi khi mình cũng có thể nhận thấy sự tu tập ấy cũng chỉ là các "phương tiện thiện xảo", bởi vì các khía cạnh tôn giáo thêm thắt có thể khiến mình lạc hướng trên con đường do Đức Phật vạch ra. Sự ý thức đó về các "phương tiện thiện xảo" có thể giúp mình ít mất thì giờhao tổn sức khỏe nhưng không mang lại một sự tiến bộ cụ thể nào). Vì thế khi nào các bạn nhận diện được tâm thức thần bí nhất và thường xuyên giữ được sự luyện tập của mình bên trong bầu không gian của nó, thì việc luyện tập ấy của các bạn sẽ mang tính cách tự phát (spontaneous), hoàn toàn không cần đến một chút cố gắng nào cả. Các phương pháp tu tập đòi hỏi sự cố gắng là các phương pháp thực thi với tâm thức [thường tình] (lễ lạc, tụng niệm, cầu xin, mong chờ, hy vọng...), trong khi đó các phương pháp tu tập tự phát không cần đến cố gắng, sẽ được thực thi với tâm thức thần bí nhất.

 

            Do đó, nếu chỉ biết đọc sách thì không đủ, phải cần đến tất cả các phương pháp luyện tập sơ khởi chủ trương bởi các học phái thuộc truyền thống dịch thuật xưa. Hơn nữa, ngoài sự giảng dạy chuyên biệt của một vị thầy đầy đủ khả năng thuộc truyền thống dịch thuật xưa, người đệ tử cũng còn cần đến cả những điều phúc hạnh mà vị này ban cho mình. Do đó người đệ tử cũng phải tự tạo được cho mình những điều xứng đáng (đối với Phật giáo Tây Tạng sự quý trọng, tôn kínhbiết ơn đối người thầy của mình sẽ tạo ra một sự khắng khít, một sự trợ lực lớn lao đối với mình, dù không luôn ở bên cạnh mình cũng vậy. Nếu mình không có một vị thầy nào trợ lực cho mình thì hãy xem Đức Đạt-lai Lạt-ma là vị thầy của mình, những dòng chữ này là những lời mà Ngài chỉ giáo cho mình và nhận mình làm đệ tử của Ngài. Đó là cách cảm thấy qua không gianthời gian lúc nào Ngài cũng ở bên cạnh mình).

 

            Vị đại sư Nyingmapa Jigme Lingpa (Jigme Lingpa, 1730-1798, là người đã thiết lập một phép truyền thừa gọi là Longchen Ningthik, phép luyện tập này đưa ra một đường hướng tu tập nổi tiếng và cũng phổ biến nhất trong Đại hoàn thiện. Các đệ tử của ông rất đông, thuộc tất cả bốn học phái Phật giáo Tây Tạng. Nhà sư Patrul Rinpoché, tức là tác giả bài thơ trong quyển sách này, được xem là một trong số các vị hóa thân của ông, và bài thơ này cũng được xem là trực tiếp xuất phát từ những lời giảng huấn của ông xuyên qua cảc cảm ứng/emanations của nhà sư Patrul Rinpoché - gcts) đã phải ẩn tu ba năm ba tháng - tính theo âm lịch - hầu giúp mình làm hiển lộ bầu không gian của tâm thức thần bí nhất. Điều này cho thấy nếu muốn cho tâm thức thần bí nhất hiện lên với mình thì không hề là chuyện dễ. Cũng vậy nhà sư Dodrubchen (đã được nói đến trong các chương 5, 7 và 8) cũng từng luyện tập thật kiên trì. Trong tất cả các trước tác của mình, ông luôn nhấn mạnh một điều là khi đã bước vào con đường tu tập tự phát (spontaneous) tức không cần đến cố gắng, thì phải luyện tập thật gay go, phải trải qua tất cả các giai đoạn sơ khởi. Phải cần đến một vị Lạt-ma nhiều kinh nghiệm đưa tâm thức thần bí nhất vào bên trong chính mình, và sau đó thì phải thiền định bằng phép chú tâm vào một điểm ("một điểm" ở đây tức là tâm thức thần bí nhất, luôn luôn phải chú tâman trú bên trong nó. Hơn nữa trong câu trên đây cũng có một điểm tế nhị: phải nhờ một vị Lạt-ma "đưa" tâm thức thần bí nhất vào bên trong chính mình, đấy là một hình thức thụ giáo nhằm gợi lên tâm thức thần bí đó bên trong chính mình, sau đó nhờ sự tu tập mình sẽ hòa nhập nó với tâm thức thần bí đích thật đã có sẵn từ bên trong chính mình. Phương pháp luyện tập này sẽ được Đức Đạt-lai Lạt-ma giải thích trong các chương sau), ngoài ra cũng cần phải thay đổi hoàn toàn (trong nguyên bản là chữ renoncer/relinquish/từ bỏ) lối sống hiện tại của mình. Theo nhà sư Dodrubchen thì đấy là cách duy nhất giúp mình nhận biết được bầu không gian của tâm thức thần bí nhất, ngoài ra thì không có cách nào khác hơn (trên thực tế và trong bối cảnh ngày nay thì thật hết sức khó cho chúng ta tìm được một vị thầy Tây Tạng cao thâm để chỉ dẫn mình, do đó phải trông cậy nơi mình, tức thỉnh thoảng cũng nên nhìn lại cách tu tập của mình xem có mang lại cho mình một sự tiến bộ nào hay không, nếu không thì nên tìm hiểu xem những gì thiết thực và những gì vô ích hầu sửa đổi lại việc tu tập của mình. Đối với phép chú tâm vào một điểm thì khi mới bắt đầu luyện tập thì điểm ấy hỗn loạn và to lớn như cả thế giới, thế nhưng nếu kiên trì và tập trung vào nó thường xuyên hơn, thì nó sẽ ngày càng thu nhỏ lại, trở nên yên lặng, minh bạch và sâu sắc hơn. Điểm cần lưu ý sau hết là phép luyện tập nào cũng đòi hỏi sự kiên trì và lòng quyết tâm. Phép luyện tập không cần cố gắng nêu lên trên đây cũng chỉ có nghĩa là một phép luyện tập "trực tiếp hướng vào sự giác ngộ", không cần phải trải qua các giai đoạn "thiện xảo" mà thôi).

 

 

(hết chương 9)

 

 

                                                                                                Bures-Sur-Yvette, 12.03.18

                                                                                                 Hoang Phong chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8784)
Sinh thuận, tử an là một phước báo lớn của con người. Một khi chưa biết nghiệp duyên của mình sẽ chết bình an hay bất an thì hãy cố gắng tu tập các thiện pháp.
(Xem: 8483)
Bản Chất của Hạnh Phúc được trích từ tác phẩm Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc: Cẩm Nang cho Đời Sống, một quyển sách căn cứ trên sự mở rộng những đối thoại giửa Đức Đạt Lai Lạt MaBác sĩ Howard C. Cutter, một nhà tâm lý trị liệu phương Tây.
(Xem: 8020)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7774)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6969)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13843)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7575)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9333)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7864)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7801)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7364)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7753)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7478)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8687)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11095)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15469)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19255)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14941)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8850)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8851)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14704)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15303)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8547)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 11013)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11352)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8729)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9096)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19807)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24718)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8835)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9155)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10823)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9030)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7932)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8823)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8312)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7331)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11153)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7414)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8300)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17717)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44241)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45513)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45092)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10653)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8580)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7585)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7607)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7399)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12138)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7958)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8447)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9205)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8136)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8922)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 8043)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8205)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8709)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16367)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7157)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant