Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tổng quan về Phật giáo Thế giới

25 Tháng Ba 201910:08(Xem: 3477)
Tổng quan về Phật giáo Thế giới

Tổng quan về Phật giáo Thế giới

 

Phật giáo là tên gọi giáo pháp của Đức Phật Cồ-Đàm, thường được các tín đồ gọi là Phật pháp. Được thành lập bởi Đức Phật Thích Ca (560-480 TTL) ở miền Bắc Ấn Độ, sau đó được Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.

 

1) Các điểm nổi bật của Phật giáo

 

Bởi vì Phật giáo phát triển tại các xứ Á Châu,  người Tây phương đương nhiên nhìn nó qua lăng kính văn hóatâm lý của riêng họ. Các điểm hấp dẫn của Phật giáo là chủ trương thực nghiệm của Đức Phật, hướng đi tâm linh thực tế và đa dạng. Lý thuyết về tâm lý con người đặt nền tảng trên trách nhiệm cá nhân rất thích hợp với chủ nghĩa cá nhân của Tây phương. Những giáo thuyết về luân lý, lòng bi mẫný chí lợi tha rất tương đồng với truyền thống Do-thái Cơ-đốc giáo Tây phương. Khái niệm về nghiệp, luật nhân quả trong cả hai lãnh vực tâm lýtrách nhiệm cá nhân cũng rất phù hợp với định luật tác động và phản tác động của khoa học. Và đường hướng theo chủ nghĩa kinh nghiệm phổ cập của Phật giáo được tâm hồn người Tây phương chấp nhận. Tuy nhiên, đồng thời Phật giáo cũng có những yếu tố tương phản với cốt lõi văn hóa Tây phương.Trong khi Đức Phật dạy là hạnh phúc có thể tìm được qua sự tiết chế dục vọng, văn hóa Mỹ (đại diện cho Tây phương) lại dạy là hạnh phúc nằm trong sự thỏa mãn lòng mong cầu. Trong khi Tây phương dạy lòng tự quyết và sự theo đuổi ham muốn, Phật giáo dạy xả kỷ và lợị tha. Có sự đối chọi giữa khuynh hướng thoát tục của Phật giáo và khuynh hướng nhập thế của người Mỹ hiên đại. Ngay cả trong Phật giáo cũng có sự đối kháng giữa hai hướng đi thiền định và học tập giáo lý, trong tất cả các tông phái.

 

Phật giáo rất bao dung, đó là điểm luôn luôn thu hút người Tây phương. Phật giáo có kho giáo lý (rất tốt) nhưng không bao giờ muốn cưỡng ép hay lên lớp người khác. Người ta cũng rất ngưỡng mộ hệ thống công lý của Phật giáo, theo đó thì ai gieo nhân nào sẽ gặt quả đó. Thiện chí sẽ được tưởng thưởng và ác ý sẽ bị trừng phạt đích đáng. Hệ luân lý cao thượng của Phật giáo được nhiều người tán thán. Không ai có thể bài bác giá trị của Bốn Sự ThậtCon Đường Bát Chánh.

 

Yếu tố quan trọng nhất của Phật giáo được diễn tả trong nhiều kinh điển Đại thừa như kinh Pháp Hoakinh Hoa Nghiêm. Đó là Đức Phật không phải chỉ cứu vớt chúng sanh rồi sau đó để họ đóng vai trò phụ thuộc hay phục tùng - mà thật ra tâm nguyện của Ngài là giúp đỡ họ thành Phật, nghĩa là bằng như Ngài không khác. Đây là ưu điểmtính cách mạng và duy nhất của Phật giáo, không thấy có trong các tôn giáo khác.

 

2) Chi nhánh và Truyền thống

 

Nhánh Phật giáo Nam tông hay Phật giáo Trưởng Lão nổi lên ở miền Nam Ấn Độ rồi lan qua Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan và Campuchia - cũng gọi Phật giáo Nguyên thủy. Trong trường phái nầy, hành giả gắng tu tập để thành A-la-hán, tức là vị thánh đã chiến thắng dục vọngngã chấp, đạt giải thoát cho riêng mình. Bởi vì chỉ nhằm đạt giải thoát cá nhân, hệ phái nầy bị các xứ Phật giáo miền Bắc chê là Tiểu thừa (xe nhỏ). Nhánh Phật giáo miền Bắc Ấn, gọi là Đại thừa, phát triển và lan qua Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Việt NamTriều Tiên. Trái với Phật giáo Nguyên thủy chủ trương bảo thủ cứng nhắc, Đại Thừa uyển chuyển thích nghi với nhu cầu của chúng sanhcăn bản dân tộc, văn hóatrình độ khác nhau. Lý tưởng của Đại thừatrở thành vị Bồ-tát, sẵn sàng hy sinh bản thân để cứu giúp chúng sanh đang chìm đắm trong vô minhtuyệt vọng, kể cả với cái giá phải xả bỏ quả Bô-đề Vô thượng cho riêng mình (xem “Bồ-tát Địa Tạng”)..

 

Bởi vì mỗi môn pháigiáo pháp đều là phương tiện thích ứng với một nhóm người, chúng chỉ hoàn hảo đối với các đối tượng đó, tại một thời điểm nào đó. Hãy xem qua lời bình của ngài D.T. Suzuki: "Thần học Phật giáolý thuyết bao gốm nhiều loại kinh nghiệm trong Phật giáo có vẽ như mâu thuẫn với nhau. Thật ra, lịch sử Phật giáo Trung quốc là một chuỗi các cố gắng nhằm dung hòa những trường phái đối kháng nhau. Có nhiều cách phân loại và dung hòa được đề nghị ...đã đi đến kết luận: Phật giáo mở cho ta nhiều cánh cửa đi vào chân lý, bởi lẽ có nhiều loại người, nhiều loại tánh người và môi trường khác nhau do sự sai biệt về nghiệp quả. Điều nầy được chính Đức Phật nêu lên và Ngài dạy rằng chỉ cùng một loại nước mà bò cái uống vào thành sữa ngọt trong khi rắn hổ mang uống vào thành nọc độc chết người – cho nên vị lương y phải cho thuốc tùy theo bịnh.Đây là thuyết "Phương tiện Thiện xảo." của Đức Phật..

 

3) Hiện tình Phật giáo

 

Thế kỷ 20 đem lại nhiếu biến chuyển quan trọng cho Phật giáo. Cộng Sản chiếm quyền đưa tới sự tàn phá rộng khắp, nhứt là cho các Tăng đoàn. Trước hết là ở phần Á châu của Liên bang Sô-viết và Mông cổ, rồi kế tiếp là Bắc Hàn, Trung Quốc, Tây Tạng, Việt Nam. Lào và Cao Miên. Các truyền thống Phật giáo đều bị hủy hoại (để rồi vào cuối thế kỷ niềm tin lại được tái sinh, Trung quốc là một trường hợp đáng chú ý). Khoảng thời gian nầy có sự phục hồi hoạt độngtrở về đất đai đã bị chiếm đoạt từ lâu. Đáng chú ý là ở Nam Dương và Ấn Độ, Phật giáo đã tái hiện và hồi phục được sự ủng hộ của dân chúng. Đáng ghi nhậnPhật giáo ngày nay có nhiều môi trường phát triển mới. Ở Âu Châu, Phật giáo Nguyên thủy vào đầu thế kỷ đã thành lập, tuy còn ở qui mô nhỏ. Đại thừa Phật giáohình thức Thiền đã thu phục được một số tín đồ đáng kể ngoài cộng đồng di dân Á Châu,.vào thập niên 1950, nhứt là tại Bắc Mỹ. Hoạt động đắc lực của các sư Tây Tạng lưu vong đã đem lại sự ủng hộ cho Phật giáo Tây tạngĐầu thập niên 1980, đã có hàng trăm nhóm tín đồtrung tâm Phật giáo rải rác khắp nơi trên thế giới Tây phương. Phần lớn những họat động nầy tuy còn ở qui mô nhỏ, nhưng khá nhiều trường hợp có cơ sở vững chắc.

 

Hình ảnh Phật giáo ở người Tây phương có khuynh hướng tập trung nơi sư đồng hóa cốt yếu với các lý tưởng cao đẹp của Phật giáo. Thường thì người Tây phưong chú trọng về tâm linh hơn là vấn đề tu tập qua luyện tâm và giới luật, hay giáo thuyết của các giảng sư. Kết quả sự tu tập được họ diễn tả là nhằm đạt được, trong đời nầy, một kinh nghiệm tâm linh trực tiếp. Nhưng đối với phần nhiều Phật tử Á châu, hình ảnh Phật giáo nầy chỉ là một phần nhỏ của những gì đến với tâm họ. Phật giáo là hơn nhiều so với thiền định, kiết hạ, tĩnh lặng và tu tâm - nhiều hơn tất cả những gì nêu lên bởi các triết giahọc giả. Mặt kia của Phật giáo có nhiều hình thức, nhưng nếu chỉ tập trung vào hai quyển kinh A Di Đà, ta có thể nói rằng xuyên qua lịch sử, hai bộ kinh nầy được trân trọng bởi rất nhiều Phật tửniềm tin vào một số đức Phật siêu nhiêntrông cậy vào sự cứu độ của các Ngài. Như vậy, trong số người tự nhận là Phật tử, có những người hướng về một Đức Phật hay nhiều Đức Phật như là nguồn cảm hứng hay dẫn đạo - và có những người đặt căn bản đức tin và sự tu tập của họ trên sự cứu độ của các Đức Phật. Nếu chúng ta nói về hạng người sau, đây là lãnh vực của Phật giáo đức tinphụng thờ, gọi là Tịnh độ tông - môn phái đang phổ biếnthành công nhất trong cộng đổng Phật giáo Á châu ."

 

Thích Phước Thiệt phỏng dịch đề mục “Buddhism”, trong “The Seeker’s Glossary: Buddhism” – 22/3/19

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7682)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22461)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8900)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
(Xem: 10120)
Cho đến nay, người ta vẫn chưa biết chính xác bản kinh Pháp Hoa này được thiết lập khi nào, ở đâu và được ghi lại bằng ngôn ngữ nào trước hết.
(Xem: 16812)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 8286)
Việc nghiên cứu Kinh Lăng-già, đã được ngài D.T.Suzuki thực hiện, qua tác phẩm “rất thẩm quyền”: Studies in the Lankavatara Sutra – nghiên cứu về kinh Lăng-già.
(Xem: 19101)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 8002)
Chính pháp trụ một nghìn năm, tượng pháp trụ một nghìn năm, mạt pháp trụ một vạn năm. Thuyết này trích trong Kì-hoàn tinh xá bi.
(Xem: 6959)
Nhị đếtục đếchân đế, còn gọi là chân lý tương đốichân lý tuyệt đối hay chân lý thế gianchân lý xuất thế gian.
(Xem: 8223)
Phật giáocách sống dựa trên việc rèn luyện tâm. Mục đích cao nhất là để đi trên con đường giải thoát khỏi đau khổ, và đạt đến Niết Bàn,
(Xem: 8575)
Trong 2 giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ nguyện vọng và dấn thân, chỉ với việc dấn thân chúng ta mới thọ giới Bồ tát.
(Xem: 9676)
Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 9545)
Thực chứng giáo lý duyên khởi, người thông tuệ hoàn toàn không vướng vào những quan điểm cực đoan...
(Xem: 7730)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại họcTrung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.
(Xem: 8298)
Đức Phật nói, nếu giữ tâm vững như hòn đảo trước phong ba bão táp của cuộc đời thì chúng ta sẽ có được chất liệu an vui, an vui về thái độ, tinh thần...
(Xem: 8304)
Phật dạy thân người do tứ đại gồm bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại hình thành; đất với gió lại không thuận với nhau, gió thổi mạnh thì đất rung rinh..
(Xem: 7946)
Phật dạy trong mỗi người chúng ta đều có phần tâm linh sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó;
(Xem: 8435)
Thực tại nền tảng của thế giới Hoa Nghiêm là Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Đây là Pháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là Pháp thân của tất cả chư Phật.
(Xem: 9966)
Dựa trên giả định các hoạt động của Tâm tạo ra những cấu trúc não bộ mới (Hebb 1949) cho biết ý tưởng, tình cảm có thể để lại dấu ấn
(Xem: 8983)
Là giai đoạn duy nhất trong kinh nghiệm cận tử liên quan đến việc nhận thức thế giới mang tính vật lý hơn là tính tâm linh...GIDEON LITCHFIELD
(Xem: 8775)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”
(Xem: 8031)
Nếu quý vị không có tuệ giác trong cung cách chính mình và mọi thứ thật sự là, quý vị không thể nhận ra và xa lánh những chướng ngại...
(Xem: 9936)
Tâm ta là vật quan trọng nhất. Mọi sự đến từ tâm, vì thế tất cả những gì không ai ưa thích mà giờ đây ta đối mặt cũng đến từ tâm.
(Xem: 9850)
Những giác quan của chúng ta góp phần cho sự si mê của chúng ta. Đối với những tính năng của chúng ta về thấy, nghe, ngửi, nếm, và cảm giác, những đối tượng dường như tồn tại trong tự bản chất của nó.
(Xem: 9366)
Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù.
(Xem: 10246)
Bất cứ ai quan tâm đến lịch sử Đức Phật đều muốn biết về bữa ăn cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà (Cunda) cúng dường,
(Xem: 14563)
Là vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Tuệ, Bồ Tát Văn Thù thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen.
(Xem: 9120)
Đức Phật là một bậc đạo sư thực tiễn. Mục tiêu duy nhất của Ngài là giải thích tất cả chi tiết trong vấn đề của khổ là thực tế phổ biến của cuộc đời.
(Xem: 8608)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 9761)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”.
(Xem: 15753)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 8195)
Bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh hay còn gọi là bảy pháp bất thối được đề cập trong bài kinh Đại bát Niết bàn, gồm: Có Tín tâm, có Tàm, có Quý, Đa văn, Tinh tấn, Chánh niệmTrí tuệ.
(Xem: 11125)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh.
(Xem: 11790)
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý tríthiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm.
(Xem: 8860)
Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
(Xem: 9090)
Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh
(Xem: 12008)
Chữ “giác ngộ” trong Đạo Phật, tiếng Pali và Sanskrit đều là “Bodhi”. Tiếng Anh là “enlightenment” hay “awakening”
(Xem: 9428)
Chúng tôi đã thuyết giảng về những cảm xúc đau khổ và các tai hại mà chúng sẽ gây ra cho việc hành trì tu tập của chúng ta.
(Xem: 21745)
Chúng ta đã biết đời là vô thường đau khổ, nhưng chúng ta còn cố chấp cái ngã, cái ta, cố bám víu vào cái của ta, thì chúng ta không thể trừ bỏ được kiêu mạn,
(Xem: 15296)
Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoátgiác ngộ tối hậu...
(Xem: 8678)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộVãng sanh khác nhau thế nào?
(Xem: 9376)
Khi đã biết nghiệp báo nhân quả không thể tránh, khủng khiếp như thế, chúng ta phải cố gắng tránh làm ác từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm
(Xem: 7818)
Khảo sát hiện tượng "hội nhập văn hóa" tại một trung tâm Phật giáovị trí quan trọng vào hàng nhất nhì ở thời Lý-Trần như chùa Quỳnh Lâm...
(Xem: 9411)
Ta-bà là chu kỳ của sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu
(Xem: 9457)
Chúng ta sợ đủ thứ: sợ chết, sợ khốn khổ, sợ bị chê bai chỉ trích, và trên tất cả, hình như chúng ta rất sợ sự thật.
(Xem: 10427)
Con người sanh ra trên cõi đời này đã mang theo nghiệp nhân của đời trước, lúc lớn lên lại gây tạo thêm nghiệp mới.
(Xem: 8876)
Tất cả việc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích cho chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo.
(Xem: 14888)
Mặc dù các tôn giáo nhất là Phật giáo đều nhấn mạnh đến vấn đề Nhân Quả - Nghiệp báo, song Luật Nhân quả không phải là của riêng một tôn giáo nào, nó là một luật của tự nhiên
(Xem: 8039)
“Sống Tỉnh Giác” là sống tỉnh chứ không còn ngủ mê nữa. Đây là đi vào thực hành chứ không phải là học, hiểu hay lý luận suông.
(Xem: 8351)
Sau khi trở thành phật tử, có tam qui, ngũ giới rồi, người phật tử phải sống ra sao để an lạc hạnh phúc?
(Xem: 8434)
Tất cả chúng ta đều có duyên lớn được gặp Phật pháp, được học Phật, được có người chỉ đường, có bản đồ sẵn hết rồi, chỉ còn một việc là bước đi để trở về.
(Xem: 8851)
‘Tâm’ là chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là ‘giữ tâm ý trong sạch ’ , ‘
(Xem: 9147)
Chánh Giáo (Tam Bồ Đề_ Sambhodhi) cùng Giải Thoátmục đích chung của Phật và các đệ tử Thanh Văn...
(Xem: 8654)
Cầu xin mà có hiệu qủa, chẳng có ai không cầu, cứ ngồi đó mà cầu nguyện là tự có tất cả, chẳng phải làm việc vất vả, cần gì phải học hành cực nhọc....
(Xem: 8220)
Phật Giáo Ấn ĐộTây Tạng phân loại và hệ thống hóa toàn bộ giáo huấn của Đức Phật thành ba chu kỳ khác nhau gọi là "ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp"
(Xem: 7760)
Con Đường Của Bụt là chủ đề của khoá tu An Cư Kiết Đông năm 2008 - 2009. Đây là con đường Bụt đã đi, và chúng ta đang đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
(Xem: 9937)
con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ.
(Xem: 7945)
Con người luôn sống trong sợ hãi từ hiện tại cho đến vị lai, là do chính mình gây tạo nên bằng những hành động, lời nóiý nghĩ bất thiện
(Xem: 7887)
Kinh điển thường ví giận dữ như một cơn điên. Người điên cuồng không kiềm chế được ý thức nên hành vi, cử chỉ, việc làm gây thương tổn bản thân và người khác.
(Xem: 6985)
Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant