Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

An Định Trước Muôn Sự

23 Tháng Tư 201910:20(Xem: 3339)
An Định Trước Muôn Sự


An Định Trước Muôn Sự
Bốn phương pháp đối trị khủng hoảng truyền thông theo lời Phật dạy
Đức Quang

 

Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi. “Do cái này có mặt, cái kia có mặt. Do cái này không có mặt, cái kia không có mặt. Do cái này sanh, cái kia sanh. Do cái này diệt, cái kia diệt. Đó là một chân lý chắc thật của hiện tượng giới, truyền thông cũng không ngoài quy luật này, duyên khởi nên vô thường. Chính nơi việc hiểu sâu đậm nguyên tắc nền tảng này mà ta giác ngộ. Ở trong Pháp và luật của Thế Tôn, có bốn Pháp để sự an tịnh-sáng suốt luôn có mặt để không bị các cuộc khủng hoảng truyền thông cuốn vào vòng lẩn quẩn và bế tắc, để làm được như vậy, một người đệ tử Phật cần tu học như sau: thực hành giới định tuệ, ly tham thiểu dục - đức vô tranh, tỏ ngộ lẽ vô thường, và pháp “im lặng sấm sét”.

Một là sự kiên định do tinh thông nằm lòng, an trụ nơi giới định tuệ.

Như tảng đá kiên cố Gió thổi không lay động, Người trí tâm an định Bất động trước khen chê.

Học Phật phải có tâm chấp trì giới luật, sự vững chãi-an tịnh của định, lấy tuệ giác làm sự nghiệp. Người có ba pháp vô lậu học này sẽ không bị truyền thông làm nao động, không bị áp lực của giới tự nhiên và xã hội chi phối, không bị tưởng tri của chính mình dẫn dắt. Đây là bậc thực tu thực chứng sự bình an nội tại và là báu vật của Pháp. Đây là tông chỉ của đạo Phật, hương giới - hương định - hương tuệ là tối thượngthù thắng. Đức Phật gọi là bậc chân nhân, tỏa ngát hương cho đời, đem lại lợi ích - hạnh phúc cho mọi người mọi loài.

"Hương các loại hoa thơm Không ngược bay chiều gió Nhưng hương người đức hạnh Ngược gió khắp tung bay Chỉ có bậc chân nhân Tỏa khắp mọi phương trời."

Bậc chân nhân thực sự không chỉ hương đức hạnh tỏa sáng, mà còn có tuệ giác sáng ngời. Như là đôi cánh của một chú chim dùng để bay cao và bay xa, cũng vậy, bậc chân tu phải có giới đức trang nghiêmtuệ giác mẫn tiệp luôn an định cùng chói sáng.

"Cũng vậy giữa quần sanh, Uế nhiễm, mù, phàm tục, Đệ tử bậc Chánh Giác, Sáng ngời với Tuệ Trí.

Để thành bậc đạo sư thì cần tuệ giác sáng ngời, vì trí tuệtối thượng. Như Phật dạy trong kinh Tương Ưng:

“Này các Tỷ kheo, ví như trong loài bàng sanh, sư tử, vua các loài thú được xem là tối thượng, tức là về sức mạnh, tốc lực và dõng mãnh. Cũng vậy, này các Tỷ kheo, trong các pháp thuộc phần giác ngộ, tuệ căn được xem là tối thượng, tức là về giác ngộ.

Và thế nào là các pháp thuộc phần giác ngộ? Này các Tỷ kheo, đó là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căntuệ căn là pháp thuộc phần giác ngộ, vì đưa đến giác ngộ.  

Ví như, này các Tỷ kheo, trong loài bàng sanh, sư tử, vua các loài thú được xem là tối thượng, tức là về sức mạnh, tốc lực và dõng mãnh. Cũng vậy, này các Tỷ kheo, trong các pháp thuộc phần giác ngộ, tuệ căn được xem là tối thượng, tức là về giác ngộ. 

Vậy nên, người tu phải luyện tâm sáng ngời, biết thiểu dục tri túc; lấy sự học Pháp, hiểu Pháp, hành Pháp làm chính để thông qua đó thành tựu tuệ giác ‘văn, tư, tu’. Đồng thời qua đó sẽ thành tựu tâm lý ‘dĩ bất biến ứng vạn biến’.

Hai là sự an tịnh do học Pháp tu Phật nên có tầm nhìn dài lâu sâu rộng, không còn tranh chấp với đời, ly tham vô dục. Với ý thức này, trách nhiệm của một đệ tử Phật xuất gia phải kiên định thực hành pháp thiểu dục tri túc để sống bình an. Điều đức Phật dạy trong đoạn mở đầu kinh Tứ thập nhị chương là “ly dục tịch tĩnh thị tối vi thắng.” Nghĩa là ‘lìa dục tịch tĩnh là pháp tối thượng’. Sự an tịnh do không tham, không sân, không si; nghĩa là ‘không tranh chấp với đời’. Đây gọi là an tịnh do ly tham, không tranh chấp, đức vô tranh.

"Như ong đến với hoa, Không hại sắc và hương, Che chở hoa, lấy nhụy. Bậc Thánh đi vào làng".

 Đời sống thiểu dục, biết đủ kiến tạo cực lạc Phật quốc cho tự thân, sẽ là bến đổ bình yên cho mọi người, là chỗ dựa vững chãi cho chúng sanh. Đó là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng sự an tịnh trong mối quan hệ của người thầy và học trò, bước tiên khởi để xứng đáng là bậc đạo sư như pháp như luật.

Ba là kiên định niềm tin do lãnh ngộ và thể nhập pháp vô thường. Tất cả lấy bình tâm là chính, lấy an tâmtrung tâm, không lay động trước sóng gió của thịnh suy. 'Coi sự hưng-hóa như cây bốn mùa’, tinh thần của Phật dạy, điều mà một hành giả phải nằm lòng, pháp cần suy niệm hằng ngày trong kinh Tứ Thập Nhị Chương. An tâm vững chí tu họchành trì như ý thơ của thiền sư Vạn Hạnh: "Nhậm vận thịnh suy vô bố úy, là tông chỉ - tâm lý căn bản của người tu học trong xã hội hiện đại. Không bị sự hưng suy làm sợ hãi, lo lắng, đứng trước muôn sự rất bình tâm. Bởi vì, sự thịnh suy cũng mong manh vô cùng như giọt sương đầu ngọn cỏ: 'Thịnh suy như lộ thảo đầu phô'. Vì tỏ ngộ được vô thường nên đứng trước sự thịnh suy, sự thành bại, sự khen chê, … hành giả hãy như tảng đá kiên cố, tâm an địnhbất động.

Bốn là mạnh dạn từ chối trả lờibình luận các câu hỏi thuộc về siêu hình, siêu tự nhiên, linh hồn, ma quỷ... Với các lý do như sau:

- Không liên hệ đến việc thực hành giáo pháp để giải thoát giác ngộ.

- Những bàn luận này không thể kiểm chứng, đưa đến hý luậnhư vọng ngữ.

- Các lý luận suông sẽ dẫn đến tranh chấp, kiện tụng, phân chia, chia rẽ trong nội bộ Phật giáo.

Đây là bài sâu sắc cần nằm lòng để suy nghiệm, tránh nhọc lòng mình bởi những pháp không liên hệ đến đời sống tu tập giải thoát. Dưới đây là đoạn trích ghi lại việc đức Phật lý giải việc từ chối các vấn đề siêu hình; như bài học cho chúng ta - những đệ tử của Phật về nghệ thuật giao tiếp, ứng xử, giáo dục, và giảng dạy:

“Đối với vấn đề truy tìm bản nguyên thế giới thì đức Phật đã không trả lời, trả lời không dứt khoát hay trả lời bằng sự im lặng. Không những thế, còn khuyên các đệ tử không nên bàn luận về các vấn đề trên. Lý do được đưa ra cho sự im lặng này là không liên hệ đến nhiệm vụ cũng như mục đích tối thượng của việc tu học là đạt sự giải thoát các nỗi khổ, đưa đến việc giác ngộ; các vấn đề siêu hình là trống rỗng và không lợi ích. Giải thoát là nội dung chính yếu và mọi vấn đề khác đều phải xoay quanh tư tưởng tối thượng này. Cái tối thượngtrung tâm trong Phật giáo nguyên thủygiải thoát. Sau này đến thời kỳ Phật giáo phát triển cũng đã tiếp tục triển khai quan điểm giải thoát: “Phật pháp chỉ có một vị, đó là vị giải thoát hết khổ. Vị giải thoát ấy có hai: Một là chỉ giải thoát tự thân, hai là giải thoát chung hết thảy chúng sinh.” Thứ hai, việc trả lời không dứt khoát bởi nguyên nhân là do không thể chứng minh được bằng thực nghiệm. Nếu trả lời xác quyết là thế này hay thế khác sẽ tạo kiến chấp không có cơ sở cho cá nhân, tiếp đến là những tranh chấp không tưởng giữa các cá nhân với nhau.

Vấn đề đức Phật im lặng không trả lời những câu hỏi về thế giới không phải Ngài không biết. Đức Phật xác nhận là biết rất rõ nhưng không trả lời. Ở đây có thể hiểu là do mặt bằng tri thức xã hội không đủ khả năng tiếp cận, dễ đưa đến sự ngộ nhậntranh luận vì không đủ phương tiện để chứng minh. Lý do này sẽ được trình bày rõ ràng hơn trong phần nhận thức luận. Chính vấn đề thế giới quan và siêu hình đã góp phần thúc đẩy quá trình phân chia bộ phái, vì mỗi bộ phái sẽ diễn giải, giải thích một cách khác nhau theo quan điểm - sự hiểu biết của bản thân luận chủ. Từ đó, mỗi bộ phái sẽ bảo vệ quan điểm của mình và bài xích các quan điểm của các bộ phái khác. Thế nên, đã tạo ra một phong trào nghiên cứu Phật học sôi động ở thời kỳ sau, làm phong phú thêm hệ tư tưởng Phật giáo. Quá trình trả lời câu hỏi về thế giới quan của các thời kỳ sau đều có kế thừa một quan điểm của đức Phật làm tiền đề, các bộ phái đều đã dựa trên tư tưởng duyên khởi làm điểm xuất phát lý luận.”

Để có sự an tịnhgiải thoát, người đệ tử Phật phải học phải biết im lặng, từ chối, và buông bỏ những pháp không liên hệ đến giải ngộgiải thoát. Sự im lặng ‘sấm sét’ này được Phật giáo Việt Nam chuyển tải qua hình ảnh an nhẫn im lặng để thực tập của ‘Quán Âm Thị Kính’ đối với các vấn nạn trong cuộc sống nhân sinh. Sự an nhẫn đó không vì khiếp sợ hay bạc nhược trước sự đời, nhưng đó là ‘im lặng sấm sét’ của bậc vĩ nhân, bậc thánh đầy tuệ giác cùng từ tâm vô lượng giữa đời thường. Đây là bài học quan trọng làm cho hành giả nhẹ nhàng và an lạc do pháp né tránh đem lại. Nói khác là né tránh pháp đưa đến tịnh lạc, an định; do không não phiền bởi sự quấy rầy, não loạn, và nhiễu phiền. Hơn nữa, đức Phật còn dạy người tu nhân học đạo phải biết kiệm lời, phải biết nói điều lợi ích, nói lời đem lại an lạchạnh phúc như sau:

“Dầu nói ngàn ngàn lời, Nhưng không gì lợi ích, Tốt hơn một câu nghĩa, Nghe xong, được tịnh lạc.”

(Kinh Pháp Cú, câu số 100)

Tóm lại, để rồi ‘im lặng như chánh pháp (Ariya-tunhibhàva), nói năng như chánh pháp (Dhamma-kathà)’, như lời Phật dạy trong kinh Thánh Cầu, Trung Bộ. Đây chính là châm ngôn để xử lý khủng hoảng truyền thông, theo hướng “yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn”.

 Người đệ tử Phật phải lo tu học để thành tựu bốn pháp: một là tu trì giới định tuệ; hai là thực hành pháp thiểu dục tri túc và chăm lo vun bồi tuệ giác Phật để kiến thiết cõi nước cực lạc; ba là bình tâm trước suy thịnh, vững tin nơi chánh pháp Phật đà - một thần dược trị lành khổ đau, chứng đạt Niết bàn; bốn biết ‘im lặng sấm sét’ đối với vấn đề siêu hình (nghĩa là không hơn thua trong tranh luận với các vấn đề chưa thể kiểm chứng), kiệm lời để rồi nói lời có ích thiết thực, và lo tập trung chăm sóc vườn tâm hoa tuệ giác, không để thời gian trôi qua vô ích. Tạm kết lại, chúng ta cùng suy ngẫm hai câu kinh Pháp Cú:

“Đường này đến Thế Gian Đường kia đến Niết Bàn Tỷ kheođệ tử Phật  Phải ý thức rõ ràng.” “Đêm dài cho kẻ thức, Đường dài cho kẻ mệt, Luân hồi dài, kẻ ngu, Không biết chơn diệu pháp.”

 

Đức Quang

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23106)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8098)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20519)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19530)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18403)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16257)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15941)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19039)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14311)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9619)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8715)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8209)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8913)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 10968)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9138)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8881)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 7951)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9096)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35631)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8559)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15093)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8702)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15292)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9178)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8843)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9359)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8457)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10302)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7664)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9540)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7517)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17230)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15021)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9501)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20903)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9215)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7180)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17711)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17636)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25817)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7829)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9919)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7274)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9655)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8145)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9106)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7419)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8779)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7935)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8362)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7544)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8729)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8168)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8888)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7300)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 13997)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7107)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
(Xem: 10363)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
(Xem: 7698)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
(Xem: 8506)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant