Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

An Định Trước Muôn Sự

23 Tháng Tư 201910:20(Xem: 3343)
An Định Trước Muôn Sự


An Định Trước Muôn Sự
Bốn phương pháp đối trị khủng hoảng truyền thông theo lời Phật dạy
Đức Quang

 

Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi. “Do cái này có mặt, cái kia có mặt. Do cái này không có mặt, cái kia không có mặt. Do cái này sanh, cái kia sanh. Do cái này diệt, cái kia diệt. Đó là một chân lý chắc thật của hiện tượng giới, truyền thông cũng không ngoài quy luật này, duyên khởi nên vô thường. Chính nơi việc hiểu sâu đậm nguyên tắc nền tảng này mà ta giác ngộ. Ở trong Pháp và luật của Thế Tôn, có bốn Pháp để sự an tịnh-sáng suốt luôn có mặt để không bị các cuộc khủng hoảng truyền thông cuốn vào vòng lẩn quẩn và bế tắc, để làm được như vậy, một người đệ tử Phật cần tu học như sau: thực hành giới định tuệ, ly tham thiểu dục - đức vô tranh, tỏ ngộ lẽ vô thường, và pháp “im lặng sấm sét”.

Một là sự kiên định do tinh thông nằm lòng, an trụ nơi giới định tuệ.

Như tảng đá kiên cố Gió thổi không lay động, Người trí tâm an định Bất động trước khen chê.

Học Phật phải có tâm chấp trì giới luật, sự vững chãi-an tịnh của định, lấy tuệ giác làm sự nghiệp. Người có ba pháp vô lậu học này sẽ không bị truyền thông làm nao động, không bị áp lực của giới tự nhiên và xã hội chi phối, không bị tưởng tri của chính mình dẫn dắt. Đây là bậc thực tu thực chứng sự bình an nội tại và là báu vật của Pháp. Đây là tông chỉ của đạo Phật, hương giới - hương định - hương tuệ là tối thượngthù thắng. Đức Phật gọi là bậc chân nhân, tỏa ngát hương cho đời, đem lại lợi ích - hạnh phúc cho mọi người mọi loài.

"Hương các loại hoa thơm Không ngược bay chiều gió Nhưng hương người đức hạnh Ngược gió khắp tung bay Chỉ có bậc chân nhân Tỏa khắp mọi phương trời."

Bậc chân nhân thực sự không chỉ hương đức hạnh tỏa sáng, mà còn có tuệ giác sáng ngời. Như là đôi cánh của một chú chim dùng để bay cao và bay xa, cũng vậy, bậc chân tu phải có giới đức trang nghiêmtuệ giác mẫn tiệp luôn an định cùng chói sáng.

"Cũng vậy giữa quần sanh, Uế nhiễm, mù, phàm tục, Đệ tử bậc Chánh Giác, Sáng ngời với Tuệ Trí.

Để thành bậc đạo sư thì cần tuệ giác sáng ngời, vì trí tuệtối thượng. Như Phật dạy trong kinh Tương Ưng:

“Này các Tỷ kheo, ví như trong loài bàng sanh, sư tử, vua các loài thú được xem là tối thượng, tức là về sức mạnh, tốc lực và dõng mãnh. Cũng vậy, này các Tỷ kheo, trong các pháp thuộc phần giác ngộ, tuệ căn được xem là tối thượng, tức là về giác ngộ.

Và thế nào là các pháp thuộc phần giác ngộ? Này các Tỷ kheo, đó là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căntuệ căn là pháp thuộc phần giác ngộ, vì đưa đến giác ngộ.  

Ví như, này các Tỷ kheo, trong loài bàng sanh, sư tử, vua các loài thú được xem là tối thượng, tức là về sức mạnh, tốc lực và dõng mãnh. Cũng vậy, này các Tỷ kheo, trong các pháp thuộc phần giác ngộ, tuệ căn được xem là tối thượng, tức là về giác ngộ. 

Vậy nên, người tu phải luyện tâm sáng ngời, biết thiểu dục tri túc; lấy sự học Pháp, hiểu Pháp, hành Pháp làm chính để thông qua đó thành tựu tuệ giác ‘văn, tư, tu’. Đồng thời qua đó sẽ thành tựu tâm lý ‘dĩ bất biến ứng vạn biến’.

Hai là sự an tịnh do học Pháp tu Phật nên có tầm nhìn dài lâu sâu rộng, không còn tranh chấp với đời, ly tham vô dục. Với ý thức này, trách nhiệm của một đệ tử Phật xuất gia phải kiên định thực hành pháp thiểu dục tri túc để sống bình an. Điều đức Phật dạy trong đoạn mở đầu kinh Tứ thập nhị chương là “ly dục tịch tĩnh thị tối vi thắng.” Nghĩa là ‘lìa dục tịch tĩnh là pháp tối thượng’. Sự an tịnh do không tham, không sân, không si; nghĩa là ‘không tranh chấp với đời’. Đây gọi là an tịnh do ly tham, không tranh chấp, đức vô tranh.

"Như ong đến với hoa, Không hại sắc và hương, Che chở hoa, lấy nhụy. Bậc Thánh đi vào làng".

 Đời sống thiểu dục, biết đủ kiến tạo cực lạc Phật quốc cho tự thân, sẽ là bến đổ bình yên cho mọi người, là chỗ dựa vững chãi cho chúng sanh. Đó là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng sự an tịnh trong mối quan hệ của người thầy và học trò, bước tiên khởi để xứng đáng là bậc đạo sư như pháp như luật.

Ba là kiên định niềm tin do lãnh ngộ và thể nhập pháp vô thường. Tất cả lấy bình tâm là chính, lấy an tâmtrung tâm, không lay động trước sóng gió của thịnh suy. 'Coi sự hưng-hóa như cây bốn mùa’, tinh thần của Phật dạy, điều mà một hành giả phải nằm lòng, pháp cần suy niệm hằng ngày trong kinh Tứ Thập Nhị Chương. An tâm vững chí tu họchành trì như ý thơ của thiền sư Vạn Hạnh: "Nhậm vận thịnh suy vô bố úy, là tông chỉ - tâm lý căn bản của người tu học trong xã hội hiện đại. Không bị sự hưng suy làm sợ hãi, lo lắng, đứng trước muôn sự rất bình tâm. Bởi vì, sự thịnh suy cũng mong manh vô cùng như giọt sương đầu ngọn cỏ: 'Thịnh suy như lộ thảo đầu phô'. Vì tỏ ngộ được vô thường nên đứng trước sự thịnh suy, sự thành bại, sự khen chê, … hành giả hãy như tảng đá kiên cố, tâm an địnhbất động.

Bốn là mạnh dạn từ chối trả lờibình luận các câu hỏi thuộc về siêu hình, siêu tự nhiên, linh hồn, ma quỷ... Với các lý do như sau:

- Không liên hệ đến việc thực hành giáo pháp để giải thoát giác ngộ.

- Những bàn luận này không thể kiểm chứng, đưa đến hý luậnhư vọng ngữ.

- Các lý luận suông sẽ dẫn đến tranh chấp, kiện tụng, phân chia, chia rẽ trong nội bộ Phật giáo.

Đây là bài sâu sắc cần nằm lòng để suy nghiệm, tránh nhọc lòng mình bởi những pháp không liên hệ đến đời sống tu tập giải thoát. Dưới đây là đoạn trích ghi lại việc đức Phật lý giải việc từ chối các vấn đề siêu hình; như bài học cho chúng ta - những đệ tử của Phật về nghệ thuật giao tiếp, ứng xử, giáo dục, và giảng dạy:

“Đối với vấn đề truy tìm bản nguyên thế giới thì đức Phật đã không trả lời, trả lời không dứt khoát hay trả lời bằng sự im lặng. Không những thế, còn khuyên các đệ tử không nên bàn luận về các vấn đề trên. Lý do được đưa ra cho sự im lặng này là không liên hệ đến nhiệm vụ cũng như mục đích tối thượng của việc tu học là đạt sự giải thoát các nỗi khổ, đưa đến việc giác ngộ; các vấn đề siêu hình là trống rỗng và không lợi ích. Giải thoát là nội dung chính yếu và mọi vấn đề khác đều phải xoay quanh tư tưởng tối thượng này. Cái tối thượngtrung tâm trong Phật giáo nguyên thủygiải thoát. Sau này đến thời kỳ Phật giáo phát triển cũng đã tiếp tục triển khai quan điểm giải thoát: “Phật pháp chỉ có một vị, đó là vị giải thoát hết khổ. Vị giải thoát ấy có hai: Một là chỉ giải thoát tự thân, hai là giải thoát chung hết thảy chúng sinh.” Thứ hai, việc trả lời không dứt khoát bởi nguyên nhân là do không thể chứng minh được bằng thực nghiệm. Nếu trả lời xác quyết là thế này hay thế khác sẽ tạo kiến chấp không có cơ sở cho cá nhân, tiếp đến là những tranh chấp không tưởng giữa các cá nhân với nhau.

Vấn đề đức Phật im lặng không trả lời những câu hỏi về thế giới không phải Ngài không biết. Đức Phật xác nhận là biết rất rõ nhưng không trả lời. Ở đây có thể hiểu là do mặt bằng tri thức xã hội không đủ khả năng tiếp cận, dễ đưa đến sự ngộ nhậntranh luận vì không đủ phương tiện để chứng minh. Lý do này sẽ được trình bày rõ ràng hơn trong phần nhận thức luận. Chính vấn đề thế giới quan và siêu hình đã góp phần thúc đẩy quá trình phân chia bộ phái, vì mỗi bộ phái sẽ diễn giải, giải thích một cách khác nhau theo quan điểm - sự hiểu biết của bản thân luận chủ. Từ đó, mỗi bộ phái sẽ bảo vệ quan điểm của mình và bài xích các quan điểm của các bộ phái khác. Thế nên, đã tạo ra một phong trào nghiên cứu Phật học sôi động ở thời kỳ sau, làm phong phú thêm hệ tư tưởng Phật giáo. Quá trình trả lời câu hỏi về thế giới quan của các thời kỳ sau đều có kế thừa một quan điểm của đức Phật làm tiền đề, các bộ phái đều đã dựa trên tư tưởng duyên khởi làm điểm xuất phát lý luận.”

Để có sự an tịnhgiải thoát, người đệ tử Phật phải học phải biết im lặng, từ chối, và buông bỏ những pháp không liên hệ đến giải ngộgiải thoát. Sự im lặng ‘sấm sét’ này được Phật giáo Việt Nam chuyển tải qua hình ảnh an nhẫn im lặng để thực tập của ‘Quán Âm Thị Kính’ đối với các vấn nạn trong cuộc sống nhân sinh. Sự an nhẫn đó không vì khiếp sợ hay bạc nhược trước sự đời, nhưng đó là ‘im lặng sấm sét’ của bậc vĩ nhân, bậc thánh đầy tuệ giác cùng từ tâm vô lượng giữa đời thường. Đây là bài học quan trọng làm cho hành giả nhẹ nhàng và an lạc do pháp né tránh đem lại. Nói khác là né tránh pháp đưa đến tịnh lạc, an định; do không não phiền bởi sự quấy rầy, não loạn, và nhiễu phiền. Hơn nữa, đức Phật còn dạy người tu nhân học đạo phải biết kiệm lời, phải biết nói điều lợi ích, nói lời đem lại an lạchạnh phúc như sau:

“Dầu nói ngàn ngàn lời, Nhưng không gì lợi ích, Tốt hơn một câu nghĩa, Nghe xong, được tịnh lạc.”

(Kinh Pháp Cú, câu số 100)

Tóm lại, để rồi ‘im lặng như chánh pháp (Ariya-tunhibhàva), nói năng như chánh pháp (Dhamma-kathà)’, như lời Phật dạy trong kinh Thánh Cầu, Trung Bộ. Đây chính là châm ngôn để xử lý khủng hoảng truyền thông, theo hướng “yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn”.

 Người đệ tử Phật phải lo tu học để thành tựu bốn pháp: một là tu trì giới định tuệ; hai là thực hành pháp thiểu dục tri túc và chăm lo vun bồi tuệ giác Phật để kiến thiết cõi nước cực lạc; ba là bình tâm trước suy thịnh, vững tin nơi chánh pháp Phật đà - một thần dược trị lành khổ đau, chứng đạt Niết bàn; bốn biết ‘im lặng sấm sét’ đối với vấn đề siêu hình (nghĩa là không hơn thua trong tranh luận với các vấn đề chưa thể kiểm chứng), kiệm lời để rồi nói lời có ích thiết thực, và lo tập trung chăm sóc vườn tâm hoa tuệ giác, không để thời gian trôi qua vô ích. Tạm kết lại, chúng ta cùng suy ngẫm hai câu kinh Pháp Cú:

“Đường này đến Thế Gian Đường kia đến Niết Bàn Tỷ kheođệ tử Phật  Phải ý thức rõ ràng.” “Đêm dài cho kẻ thức, Đường dài cho kẻ mệt, Luân hồi dài, kẻ ngu, Không biết chơn diệu pháp.”

 

Đức Quang

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10101)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
(Xem: 18491)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14497)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8791)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8897)
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi tức là không, cũng là giả danh về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo.
(Xem: 8191)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 8986)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14135)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8432)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15249)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13108)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7790)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16610)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15463)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8965)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7912)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7080)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11238)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14232)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10425)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20432)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8765)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9250)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 24061)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12602)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7788)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16197)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15547)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8713)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7625)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14577)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9261)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15458)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15100)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16586)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13416)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15286)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7802)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7478)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7327)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 8992)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 13988)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 8003)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7822)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15770)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10242)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7669)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7480)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12754)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7826)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8076)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 13951)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7261)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9157)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9632)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13063)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7560)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
(Xem: 10107)
Chúng ta lễ lạy để tịnh hóa mọi tình huống trong quá khứ khi ta không kính trọng người khác... Nguyên tác: Lạt Ma Gendyn Rinpoche; Liên Hoa dịch Việt
(Xem: 7175)
Sau khi Đức Phật diệt độ, Tôn giả Maha Kassapa đã triệu tập 500 vị A-la-hán vân tập tại thành Rājagaha để kiết tập kinh điển... Chúc Phú
(Xem: 30855)
Tăng đoàn bắt đầu hoạt động rộng rãi và có ảnh hưởng kể từ khi Phật niết bàn... Thích Nữ Trí Nguyệt dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant