Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ai Hiểu Rõ Vô Thường Là Người Biết Sống Hạnh Phúc

05 Tháng Sáu 201910:47(Xem: 3315)
Ai Hiểu Rõ Vô Thường Là Người Biết Sống Hạnh Phúc

AI HIỂU RÕ VÔ THƯỜNG LÀ NGƯỜI BIẾT SỐNG HẠNH PHÚC

 

Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến

 

Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt, thì không tốt-đẹp cho bằng người chỉ sống một-ngày mà hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.

 

Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về sư cô Patācārā.

Patācārā là con gái của một người đàn ông giàu ở Sāvatthi. Cô rất xinh đẹp và cô được canh-phòng rất nghiêm ngặt bởi cha mẹ cô. Tuy nhiên một ngày kia, cô chạy-trốn cùng với người-yêu là một thanh niên trẻ, và cũng là người phục dịch của gia đình cô, rồi cô đến sống trong một ngôi làng, để làm vợ anh người-yêu nghèo nầy. Sau đó, cô mang thai và khi thời-điểm sinh-đẻ đến gần, cô xin phép chồng cho cô trở về nhà bố mẹ cô ở Sāvatthi, tuy nhiên, chồng cô không tán-thành. Vì thế, một ngày kia, trong khi chồng cô đi vắng, cô bắt-đầu chuyến đi trở về nhà bố mẹ cô. Chồng cô đã chạy theo cô, và bắt kịp cô trên đường đi, rồi năn-nỉ cô quay trở lại với anh; nhưng cô từ chối. Ngay lúc ấy, thời điểm sinh-nở của cô lại quá cận-kề, nên cô đã sinh ra một bé trai trong một bụi cây. Sau khi con trai cô ra đời, cô trở về nhà với chồng.

Sau đó, một lần nữa cô lại mang thai, và khi thời-điểm sinh-đẻ đến gần, cô dẫn theo con trai, và cô lại bắt đầu chuyến đi về nhà bố mẹ cô ở Sāvatthi. Chồng cô lại chạy theo cô, và bắt kịp cô trên đường đi; tuy nhiên, thời điểm sinh-nở của cô quá cận-kề, và lúc nầy trời đang mưa rất lớn. Chồng cô đi tìm một nơi thích-hợp để cô sinh-đẻ, và trong khi anh đang dọn dẹp sạch sẽ một khoảng đất, anh bị rắn độc cắn, và anh chết ngay lập tức. Patācārā đợi tin chồng, và trong khi chờ đợi chồng trở lại, cô đã sinh ra một bé trai (thứ nhì).

Khi trời sáng, cô đi tìm chồng, nhưng cô chỉ thấy xác chết của chồng. Cô tự nói với chính mình là chồng cô đã chết bởi vì cô, rồi cô tiếp tục chuyến đi về nhà bố mẹ mình. Bởi vì mưa suốt đêm hôm trước, nên dòng sông Aciravati như cơn nước lũ; vì thế, cô không thể bồng-bế cả hai đứa con trai cô qua sông được. Cô đặt đứa con trai-lớn ở bờ sông bên nầy, rồi cô vượt dòng nước mang theo đứa con trai sơ-sinh một-ngày tuổi, rồi cô đặt con sơ-sinh ở bờ sông bên kia. Sau đó, cô đi ngược trở lại với đứa con trai lớn. Trong khi cô hãy còn đang ở giữa dòng sông, có một con chim ưng lớn bay lượn ngay trên đầu đứa con trai sơ-sinh vì nó tưởng nhầm là miếng thịt. Cô la hét với mục-đích làm con chim ưng kinh hãi bay đi, tuy nhiên, tất cả trong vô-vọng; con chim ưng đã cặp lấy, và mang đứa nhỏ bay đi. Trong khi đó, đứa con trai lớn nghe tiếng mẹ la-hét từ giữa dòng sông, nên bé tưởng mẹ gọi bé chạy đến gần mẹ. Vì thế, đứa con trai lớn bước vào dòng nước tiến về phía mẹ, và bé bị dòng nước mạnh mẽ cuốn phăng đi. Như thế, Patācārā đã mất cả hai đứa con trai, cùng với chồng mình. Vì vậy, cô khóc ầm ĩ, rồi than thở, "Đứa con trai sơ-sinh thì bị con chim ưng cắp lấy bay đi, đứa con trai lớn thì bị dòng nước cuốn đi, chồng tôi thì bị rắn độc cắn chết!"

Sau đó, cô nhìn thấy một người đàn ông quen từ Sāvatthi, và cô than khóc rồi hỏi thăm ông về bố mẹ cô. Ông trả lời cô rằng, vì cơn bão dữ dội đã xảy ra ở Sāvatthi đêm hôm trước, căn nhà của bố mẹ cô bị sập, nên cả bố mẹ cô, cùng với ba người anh em của cô, đã chết, và họ đã được đưa lên giàn thiêu để hỏa táng. Khi nghe song tin-tức bi thảm nầy, Patācārā bị điên lên ngay lập tức. Cô thậm chí không còn nhận biết là quần áo cô bị tuột ra, và cô gần như đang trần-truồng. Cô chạy ra ngoài đường phố, và cô la hét ầm lên, "Tôi là một người đau khổ!"

Trong khi đó, Đức Phật đang giảng phápTu Viện Kỳ Viên (Jetavana), ngài nhìn thấy Patācārā từ xa; ngài biết trước rằng cô sẽ đến tu viện. Đám đông nhìn thấy cô đến, và họ cố gắng ngăn cô lại, rồi họ nói rằng "Đừng cho người đàn bà điên nầy vào." Tuy nhiên, Đức Phật nói với họ rằng, đừng nên ngăn cản cô. Khi Patācārā đến đủ gần để nghe được tiếng nói của Đức Phật, ngài nói cô phải cẩn thận, và cô cần giữ bình tĩnh. Sau đó, cô nhận ra rằng cô đã không mặc váy, và cô xấu hổ ngồi xuống. Một người đưa cô mảnh vải, rồi cô quấn lên người. Lúc đó, cô kể chuyện cho Đức Phật nghe là cô đã mất hai người con trai, mất chồng, mất anh em, và mất bố mẹ như thế nào. Sau đó, cô trở thành một sư cô, và cô đã đạt đến sự giải thoát.

 

GIẢI THÍCH BÀI KỆ 113 TỪ TIẾNG PALI:

udayabbayaṃ apassaṃ yo ca vassasataṃ jīve (tato) udayabbayaṃ passato kusīto hīnavīriyo ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo

udayabbayaṃ: sự gia tăng và sự suy giảm; apassaṃ: không nhìn thấy; yo ca: một người (cá nhân); vassasataṃ: một trăm năm; jive: đã sống được; udayabbayaṃ: sự phát sinh và sự biến mất; passato: người mà nhận thấy; ekāhaṃ: chỉ một ngày; jīvitaṃ: cuộc sống; seyyo: là cao quý

Người nào sống chỉ có một-ngày mà hiểu-rõ sự phát-sinh và sự hoại-diệt của mọi-vật, thì cao-quý hơn và tốt-đẹp hơn là, người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ quá-trình của sự phát-sinh và sự hoại-diệt của mọi-vật.

Bài kệ 113 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:

(113) Trăm năm sống chẳng nhận ra. Pháp kia sinh diệt. Thật là uổng thay! Chẳng bằng sống chỉ một ngày. Mà hay vạn vật chốn này giả thôi. Vô thường, tạm bợ, nổi trôi. Sinh ra rồi diệt, diệt rồi lại sinh.

BÌNH LUẬN:

udayabbayaṃ: người (được sinh ra) hiểu-biết hoàn-toàn về năm uẩn (panca khanda): (1) hình-tướng (sắc); (2) cảm-giác (thọ); (3) sự nhận-biết (tưởng); (4) hành-động của tâm-thức (hành); (5) cái-biết (thức). 

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

SHORT TITLE:

The Story Of Nun Patācārā, Verse 113, Treasury Of Truth

FULL TITLE:

Who Knows Reality Is Great - The Story Of Nun Patācārā, Verse 113 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net

VERSE 113:

113. Yo ca vassasataṃ jīve apassaṃ udayabbayaṃ ekā’haṃ jīvitaṃ seyyo passato udayabbayaṃ. (8:14)

Though one should live a hundred years not seeing rise and fall, yet better is life for a single day seeing rise and fall.

While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse, with reference to Patācārā.

Patācārā was the daughter of a rich man from Sāvatthi. She was very beautiful and was guarded very strictly by her parents. But one day, she eloped with a young male attendant of the family and went to live in a village, as a poor man’s wife. In due course she became pregnant and as the time for confinement drew near, she asked permission from her husband to return to her parents in Sāvatthi, but her husband discouraged her. So, one day, while her husband was away, she set out for the home of her parents. He followed her and caught up with her on the way and pleaded with her to return with him; but she refused. It so happened that as her time was drawing so near, she had to give birth to a son in one of the bushes. After the birth of her son she returned home with her husband.

Then, she was again with child and as the time for confinement drew near, taking her son with her, she again set out for the home of her parents in Sāvatthi. Her husband followed her and caught up with her on the way; but her time for delivery was coming on very fast and it was also raining hard. The husband looked for a suitable place for confinement and while he was clearing a little patch of land, he was bitten by a poisonous snake, and died instantaneously. Patācārā waited for her husband, and while waiting for his return she gave birth to her second son.

In the morning, she searched for her husband, but only found his dead body. Saying to herself that her husband died on account of her, she continued on her way to her parents. Because it had rained incessantly the whole night, the Aciravati River was in spate; so it was not possible for her to cross the river carrying both her sons. Leaving the elder boy on this side of the river, she crossed the stream with her day-old son and left him on the other bank. She then came back for the elder boy. While she was still in the middle of the river, a large hawk hovered over the younger child taking it for a piece of meat. She shouted to frighten away the bird, but it was all in vain; the child was carried away by the hawk. Meanwhile, the elder boy heard his mother shouting from the middle of the stream and thought she was calling out to him to come to her. So he entered the stream to go to his mother, and was carried away by the strong current. Thus Patācārā lost her two sons as well as her husband. So she wept and lamented loudly, “A son is carried away by a hawk, another son is carried away by the current, my husband is also dead, bitten by a poisonous snake!”

Then, she saw a man from Sāvatthi and she tearfully asked after her parents. The man replied that due to a violent storm in Sāvatthi the previous night, the house of her parents had fallen down and that both her parents, together with her three brothers, had died, and had been cremated on one funeral pyre. On hearing this tragic news, Patācārā went stark mad. She did not even notice that her clothes had fallen off from her and that she was half-naked. She went about the streets, shouting out, “Woe is me!”

While the Buddha was giving a discourse at the Jetavana Monastery, he saw Patācārā at a distance; so he willed that she should come to the congregation. The crowd seeing her coming tried to stop her, saying “Don’t let the mad woman come in.” But the Buddha told them not to prevent her coming in. When Patācārā was close enough to hear him, he told her to be careful and to keep calm. Then, she realized that she did not have her skirt on and shamefacedly sat down. Someone gave her a piece of cloth and she wrapped herself up in it. She then told the Buddha how she had lost her sons, her husband, her brothers and her parents. She later became a nun and attained liberation.

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 113)

udayabbayaṃ apassaṃ yo ca vassasataṃ jīve (tato) udayabbayaṃ

passato kusīto hīnavīriyo ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo

udayabbayaṃ: the rise and decline; apassaṃ: does not see; yo ca: an individual; vassasataṃ: a hundred years; jīve: were to live; udayabbayaṃ: the arising and disappearance; passato: he who sees; ekāhaṃ: even one day’s; jīvitaṃ: life; seyyo: is noble

A single day’s life of a person who perceives the arising and the disappearance of things experienced is nobler and greater than the hundred-year life-span of a person who does not perceive the process of the arising and the disappearance of things.

COMMENTARY

udayabbayaṃ: the coming into being of the five-fold totality of experience (panca khanda): (1) form; (2) sensation; (3) perception; (4) conception and (5) cognition.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7602)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6136)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 10000)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7109)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7340)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 7005)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9378)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5870)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7128)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6553)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6134)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7192)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14419)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20498)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9494)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7914)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8220)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7463)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9391)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7477)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7496)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7686)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9497)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8802)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7403)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7987)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7048)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7694)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9884)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8298)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8849)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7699)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8853)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8677)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8014)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9027)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9440)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8766)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8905)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7237)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9202)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8618)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7905)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9656)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10218)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8795)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8407)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7659)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9362)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7503)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15380)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7334)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8523)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12284)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7337)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11533)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8329)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8052)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7930)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8952)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant