Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12. Phát huy tâm thức giác ngộ

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 8775)
12. Phát huy tâm thức giác ngộ


Đức Đạt Lai Lạt Ma
TU TU
Bản tiếng Anh:Practicing Wisdom - Nhà xuất bản Wisdom
Bản tiếng Pháp: Pratique de la Sagesse - Nhà xuất bản Presses du Châtelet
Bản dịch Việt ngữ: Hoang Phong - Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2008

12
Phát huy tâm thức giác ngộ

Yêu thương kẻ khác là một sự lợi ích

 Tịch Thiên xác nhận rằng hạnh phúchân hoan thoát ra từ ý chí của ta mong muốn đem đến sự tốt đẹp cho tất cả những sinh linh có giác cảm khác, trong khi đó, những khó khăn, những thảm trạngtai họahậu quả của sự kiện ta chỉ biết lo nghĩ đến chính ta.Tịch Thiên tự hỏi tại sao ta lại phải đề cập đến việc ấy : chỉ cần nhìn vào những phẩm tính của Phật, Ngài ước mong đem đến những gì tốt đẹp cho tất cả chúng sinh và số phận của chúng ta, tức thể dạng thường ngày mà chúng ta đang gánh chịu ? Chúng ta sẽ dẽ dàng nhận thấy luận cứ ấy là đúng khi so sánh giữa thử thách của những con người bình thường với những đức tính giác²ngộ và trí tuệ của chư Phật, điều ấy còn giúp ta so sánh giữa những xứng đáng và lợi ích về lòng ước vọng thiết tha đem đến sự tốt lành cho những chúng sinh có giác cảm và những tệ hại và bất lợi của thái độ ích kỷ, chỉ biết hướng về sự tốt lành của chính ta. 

Tịch Thiên tự hỏi tại sao trong khi mà tất cả chúng sinh, cũng như chính ta, đều có cùng một ước vọng đạt được hạnh phúc và loại trừ khổ đau, ta lại chỉ biết tìm cách phục vụ cho quyền lợi của chính ta, làm tổn hại đến quyền lợi của kẻ khác – đến độ không còn biết nghĩ gì đến kẻ khác ? Câu hỏi này nêu lên một sự thật lớn lao.Cũng giống như chính ta, tất cả những chúng sinh khác đều mong mỏi được hạnh phúc và loại trừ khổ đau ; mỗi người trong chúng ta đều hiểu rằng tiếp theo sau những cảm nhận về hân hoanhạnh phúc là những gì bất toại nguyện sẽ xảy ra. Cũng như chính tôi đây, với tư cách là một cá nhân, nếu đương nhiên tôi có quyền thực hiện ước vọng đạt được hạnh phúc và loại trừ khổ đau, thì tất cả những chúng sinh khác cũng có cái quyền ấy. Công nhận sự công bằng cơ bản nàytrên đây là một điều thật hết sức quan trọng.

Vậy sự khác biệt giữa những kẻ khác và ta là gì ? Dù rằng tất cả kẻ khác thật vô cùng quan trọng và quý giá, nhưng ta chỉ biết nghĩ đến quyền lợi riêng cho một người. Mặc cho sự đau đớn của kẻ khác có dữ dội đến đâu đi nữa, ta chỉ quan tâm đến sự sự an vui của chính ta mà thôi. Thế mà, mỗi khi nói đến sự an vui của những sinh linh có giác cảm khác, ta có hiểu được chăng chữ khác chỉ định vô số chúng sinh. Dù cho sự đớn đau của môt chúng sinh khác đối với ta quá nhỏ nhoi đi nữa, nhưng những đớn đau của những chúng sinh khác khi cộng lại thì thật là vô biên. Vì thế, theo quan điểm dựa trên lượng chất, sự an vui của kẻ khác trở nên quan trọng hơn sự an vui của riêng ta rất nhiều.

Mặc dù ta chỉ nghĩ đến quyền lợi của chính ta, nhưng khi những kẻ khác được hài lònghạnh phúc, ta cũng được hửng lây. Trái lại, nếu những kẻ khác luôn luôn đang btrong tình trạng đớn đau triền miên, chính ta cũng sẽ rơi vào một số phận như thế. Thật hết sức rõ ràng quyền lợi của kẻ khác liên hệ chặt chẻ với quyền lợi của chính ta. Hơn nữa, ta đã thấy rõ qua kinh nghiệm cá nhân của ta, nếu ta càng bám níu vào « cái tôi » – tức càng chăm lo quyền lợi của riêng ta – thì những vấn đề tâm lý và xúc cảm của ta lại càng trở nên trầm trọng hơn.

Nhất định, quan tâm đến chính ta là một điều hết sức quan trọng. Nhưng muốn thực hiện điều đó phảỉ biết chọn môột thái độ thực tế hơn, có nghĩa là không nên xem quyền lợi của ta quan trọng quá đáng và hãy nghĩ đến sự an vui của kẻ khác nhiều hơn. Hãy tỏ ra thương người nhiều hơn và quan tâm đến sự an vui của kẻ khác thực rathái độ rất lành mạnh dù chỉ để thỏa mãn quyền lợi của riêng ta. Khi ta biết hành động như thế, ta sẽ nhận ra một sự thay đổi quan trọng trong ta, đó là một thứ cảm tính an bình. Ta sẽ không hành động một cách ngược ngạo xem những việc nhỏ mọn trở thành to lớn giống như cả sinh mạng ta liên hệ vào đấy, và cả danh thơm của ta, cả cá tính của ta và cả kiếp sống của ta cũng bị hăm dọa. Nếu ta chỉ biết thường xuyên nghĩ đến quyền lợi của riêng ta – và hoàn toàn quên đi sự an vui cũa kẻ khác – thì một biến cố nhỏ nhoi nhất cũng có thể gây cho ta những bấn loạn mãnh liệt hay những vết thương trong nội tâm của ta. Kinh nghiệm cá nhân chứng minh cho ta những điều đó.

Tóm lại, thái độ thương người đó thật lợi ích vừa cho kẻ khác lại vừa cho ta nữa. Đặt tâm thức ta dưới sự nô lệ của ích kỷ sẽ kéo dài vô tận những cảm tính bất toại nguyện, thiếu thốnbất hạnh mang tính cách nhất thời hay lâu dài. Ta phung phí cơ duyên tuyệt vời mà ta đang có – tức cơ duyên được làm thân con người, được thừa hưởng những khả năng tuyệt mỹ, như trí thông minh có thể giúp ta đặt được những mục tiêu cao cả nhất. Vì vậy thật hết sức quan trọng phải biết ước lượng những hậu quả do những hành vi của ta gây ra trong nhất thời và trong lâu dài. Có phương cách nào hơn để đem đến cho cuộc sống làm người của ta một ý nghĩa, nếu không phải đó là phương cách suy tư về bồ-đề tâm, tức ước vọng thương người mong đạt cho được giác ngộ vì sư an vui của tất cả những sinh linh có giác cảm ?

Làm phát sinh tâm thức giác ngộ

 Về phần riêng tôi, tôi không dám nghĩ rằng đã đạt được tâm thức giác ngộ – hay Bồ-đề tâm – dù tôi hết sức mến phục những điều đó, nhưng tôi cảm thấy cảm tính mến phục ấy đã đem đến sự phong phú cho tôi và nguồn can đảm cho tôi, và đó cũng là nền móng xây dựng hạnh phúc của tôi ; chính nhờ nó, tôi mới đủ khả năng giúp kẻ khác được hạnh phúc, và tôi đã cảm nhận được sự hài lònghoan hỉ. Tôi hoàn toàn hy sinh cho lý tưởng thương người đó và tôi sẽ luôn luôn trung thành với lý tưởng đó – dù cho tôi ốm đau hay khoẻ mạnh, trong suốt tuổi già của tôi hay trong khi chết – và đối với nó, tôi tin chắc rằng tôi sẽ luôn luôn giữ được lòng mến phục sâu xa. Hỡi các bạn hữu của tôi, tôi mong muốn xin các bạn hãy tập làm quen nhiều chừng nào hay chừng ấy với Bồ-đề tâm. Nếu có thể được, các bạn hãy dốc hết nổ lực để làm phát sinh trong lòng các bạn thái độ thương người và lòng từ bi. 

1-10- Tư duy ấy đã biến thân xác ô uế này thành một hình ảnh vàng ngọc và vô giá : ấy là Phật. Hãy nắm thật chặt vị thuốc mầu nhiệm này, tên gọi của vị thuốc là Tư duy của Giác ngộ !

 Khi ta suy tư hời hợt về Bồ-đề tâm, ta thấy nó tương đối khá đơn giản ; nó tỏ ra không đến đỗi quá hấp dẫn như thế. Các cách thiền định tan-tra xem nó như cơ bản của mạn-đà-la (môt khái niệm quan trông của Phật giáo Tây tạng, dưới hình thức một tranh vẽ, tượng trưng cho vũ trụ và những sức mạnh của vũ trụ giúp cho việc thiền định) và của các thần linh, điều này có thể tỏ ra vô cùng huyền bí cho ta, và cũng vì thế nên nó cũng trở nên hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, khi ta bước vào tu tập, Bồ-đề tâm sẽ trở thành vô tận. Với nó ta sẽ không gặp bất cứ một bất ngờ nào làm cho ta vỡ mộng hay thối chí, trong khi đó những cách thiền định dựa vào thần linh, tụng kinh man-tra, cũng như các cách tu tập khác, đôi khi đưa đến thất vọng, bởi vì ta đặt vào đó những tham vọng quá lớn. Sau nhiều năm tu tập, ta có thể thốt lên : « Mặc dù tôi đã có tu tập thiền định dựa vào một thần linh và tôi cũng có tụng tất cả các kinh sách man-tra, nhưng tôi chẳng thấy một tiến bộ nào cả ; tôi chẳng cảm nhận được một kinh nghiệm thần bí nào cả » Tu tập về Bồ-đề tâm không đưa đến sự thất vọng đại loại như kiểu đó. Việc tu tập Bồ-đề tâm đòi hỏi một thời gian lâu dài, thật hết sức quan trọng khi ta bắt đầu đạt được một chút kinh nghiệm, hãy bộc lộ sự quyết tâm đó bằng những lời nguyện cầu dưới sự chứng kiến của một vị đạo sư hay trước một vị đại diện cho Phật. Hành vi này sẽ làm gia tăng thêm sức mạnh về Bồ-đề tạm của ta. Tu tập về Bồ-đề tâm là một nghi lễ đặc biệt, trong dịp này và trước mặt một vị thầy, ta phát nguyện cầu xin đạt được giác ngộ vì an vui của tất cả chúng sinh.

Phần đầu trong nghi lễ này là sự phát hiện ước vọng về Bồ-đề tâm. Làm phát sinh ước vọng thương người để đạt được Bồ-đề tâm vì sự an vui của tất cả chúng sinh tức là ta tự cam kết không từ bỏ và không làm suy thoái lòng nhiệt tâm đó, không những trong kiếp sống này, mà trong cả những kiếp sống về sau nữa. Muốn thực hiện lời cam kết đó phải noi theo một số giới luật. Phần thứ hai của nghi lễphát nguyện của người Bồ-tát ; người phát nguyện phải thực hiện xong phần thứ nhất của nghi lễ.

Sau khi đã phát nguyện, dù muốn hay không, dù đièu ấy có đem đến thích thú hay không, ta phải xem những lời phát nguyện ấy quý giá hơn mạng sống của chính ta. Sự quyết tâm giữ vững những lời phát nguyện đó phải vững chắc như một quả núi ; ta hứa từ giờ phút này phải noi theo những giới luật của người Bồ-tát và chọn một cuộc sống phù hợp với sự tu tập giúp đạt đến giác ngộ.

Nhất định một số những người đọc quyển sách này không phải là những người tu tập Phật giáo. Một số những người Phật giáo có thể cũng cảm thấy không mong muốn phát nguyện Bồ-đề tâm, và đặc biệt bước vào phần thứ hai của nghi lễ. Nếu ta cảm thấy thiếu khả năng tuân theo giới luật của người Bồ-tát, ta không nên phát nguyên ; nhưng điều này cũng không cấm cản ta làm nảy sinh lòng thương người trong ta, và cầu xin hạnh phúc sẽ đến với tất cả những sinh linh có giác cảm, để ta có đủ khả năng đạt được giác ngộ toàn vẹn vì an vui của kể khác. Làm được như thế cũng đủ : ta sẽ rút tỉa được những điều xứng đáng qua hành vi phát lộ Bồ-đề tâm, nhưng không cần phải tuân theo giới luật. Nếu không phát nguyện, ta chỉ phát huy được lòng ước vọng về Bồ-đề tâm mà thôi. Tùy vào sự phán đoán của quý vị về việc này.

Khích lệ bởi lòng ước mong giải thoát cho mọi chúng sinh
Tôi xin nhất quyết 
Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng,
Cho đến khi nào đạt được giác ngộ toàn vẹn.

Thúc đẩy bởi trí tuệlòng từ bi,
Hôm nay đây trước mặt Phật,
Tôi xin được phát khởi tâm thức Giác ngộ,
Vì sự an vui của tất cả chúng sinh.

Khi nào không gian còn tiếp tục,
Khi nào chúng sinh còn hiện hữu,
Tôi van xin vẫn còn đây
Để làm tan biến tất cả khổ đau của thế giới này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10401)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
(Xem: 7728)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
(Xem: 8540)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
(Xem: 10126)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
(Xem: 18542)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14542)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8841)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8920)
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi tức là không, cũng là giả danh về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo.
(Xem: 8217)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 9011)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14194)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8462)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15291)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13164)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7818)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16681)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15540)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8990)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7935)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7109)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11274)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14287)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10482)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20472)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8799)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9295)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 24136)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12678)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7818)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16265)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15622)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8753)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7648)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14620)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9314)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15524)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15157)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16646)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13484)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15332)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7845)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7508)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7353)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 9021)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 14043)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 8033)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7852)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15824)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10271)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7711)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7529)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12813)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7870)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8125)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 14078)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7301)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9210)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9680)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13125)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7612)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant