Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Niết Bàn

09 Tháng Chín 201905:49(Xem: 6086)
Niết Bàn

NIẾT BÀN


K. Sri Dhammananda
  Trần Tuấn Mẫn


Định Nghĩa Chánh Niệm

Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.

Niết-bàn là mục đích tối hậu của Phật giáo. Vậy Niếtbàn là gì? Biết Niết-bàn thực sự là gì thì không dễ, biết những gì không phải là Niết-bàn thì dễ hơn.

Niết-bàn không phải là hư vô hay tịch diệt. Đức Phật đã từ bỏ gia đình, vương quốc và thuyết pháp suốt 45 năm - tất cả chỉ vì hư vô hay sao?

Niết-bàn không phải là thiên đường. Nhiều thế kỷ sau Đức Phật, một số tông phái Phật giáo bắt đầu giới thiệu Niết-bàn như là một thiên đường. Mục đích của các giáo phái ấy khi đưa Niết-bàn ngang bằng với một cõi trời là để thuyết phục những người “kém trí” và để lôi kéo họ vào giáo lý của tông phái mình. Nỗ lực vì Niết-bàn theo đó có nghĩa là cầu tìm một nơi tốt lành, nơi mà mọi thứ đều đẹp đẽmọi người đều hạnh phúc miên viễn. Đây có thể là một truyện kể dân gian rất thích hợp, nhưng đây không phải là Niết-bàn mà Đức Phật đã trải nghiệm và đã giới thiệu. Lúc Ngài đang tại thế, Đức Phật đã không phủ định ý niệm về thiên đường như được nêu dẫn trong các tôn giáo Ấn Độ sơ thời. Nhưng Đức Phật biết rằng thiên đường này vẫn thuộc Luân hồigiải thoát tối hậu thì vượt khỏi các cõi trời.

Nếu Niết-bàn không phải là một nơi chốn thì Niếtbàn ở đâu? Niết-bàn hiện hữu giống như lửa hiện hữu. Tuy nhiên, không có chỗ chứa cho lửa hay cho Niếtbàn. Nhưng khi bạn chà xát những mảnh gỗ với nhau thì sự ma xát và hơi nóng là những điều kiện thuận tiện cho lửa khởi sinh. Cũng vậy, khi bản chất trong tâm con người trở nên thế nào để thoát khỏi mọi ô nhiễm thì hạnh phúc Niết-bàn sẽ xuất hiện.

Bạn có thể trải nghiệm Niết-bàn. Cho đến khi bạn trải nghiệm trạng thái tối thượng của hạnh lạc Niếtbàn, bạn chỉ có thể suy đoán Niết-bàn thực sự là gì. Đối với những ai thiên trọng lý thuyết thì kinh điển giúp họ đôi phần. Kinh điển gợi ý rằng Niết-bàn là một trạng thái hạnh phúc tinh thuần.

Tự thân Niết-bàn thì hoàn toàn không thể giải thíchhoàn toàn không thể định nghĩa. Như bóng tối chỉ có thể được giải thích bằng sự đối nghịch của nó là ánh sáng và như sự đứng im chỉ có thể được giải thích bằng sự đối nghịch của nó là chuyển động, Niết-bàn cũng vậy, như là một trạng thái được xem là sự diệt trừ mọi khổ đau, có thể được giải thích bằng sự đối nghịch của nó là sự khổ đau dai dẳng trong Luân hồi. Như bóng tối hiển lộ ở nơi nào không có ánh sáng, Cũng vậy, Niết-bàn hiển lộ ở nơi nào không có khổ đau, vô thườngbất tịnh.

Một người gãi vào những chỗ đau của mình có thể cảm nghiệm một sự khuây khỏa tạm thời. Sự khuây khỏa tạm thời này sẽ tích lũy những vết thương khiến cho bệnh nặng thêm. Niềm vui của việc được chữa lành bệnh có thể khó được so sánh với sự khuây khỏa thoáng qua do gãi. Cũng vậy, thỏa mãn sự ham muốn dục lạc chỉ mang lại sự toại ý hay hạnh phúc tạm thời kéo dài một khoảng thời gian trong Luân hồi. Chữa lành căn bệnh Luân hồi là Niết-bàn. Niết-bàn là sự chấm dứt tham ái gây mọi khổ đau sinh, già, bệnh, chết, sầu, bi, thất vọng. Niềm vui của sự chữa lành thuộc Niết-bàn có thể khó so sánh với những thú vui thuộc Luân hồi có được bằng sự thỏa mãn dục vọng.

Suy đoán về Niết-bàn là gì thì nguy hiểm; tốt hơn là nên biết làm sao để chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đạt Niết-bàn, làm sao để đạt sự an bình nội tại và sự sáng suốt trong kiến giải đưa đến Niết-bàn. Đức Phật khuyên: Hãy đưa Giáo pháp của Ngài vào thực hành. Hãy rũ bỏ mọi ô nhiễm vốn là gốc rễ của tham, sân và si. Hãy tẩy sạch mình khỏi mọi ham muốnthực hiện sự vô ngã tuyệt đối. Hãy sống một cuộc sống đạo đức chân chính và không ngừng thực hành thiền định. Bằng sự tích cực nỗ lực, hãy giải thoát mình khỏi mọi ích kỷhão huyền. Thế rồi, Niết-bàn được đạt và được trải nghiệm.

Niết-bàn và Luân hồi

Long Thọ, một học giả Phật học Đại thừa nổi tiếng, bảo rằng Luân hồi và Niết-bàn là một. Sự diễn dịch này có thể dễ dàng khiến những người khác hiểu nhầm. Tuy nhiên, bảo rằng khái niệm Luân hồi và Niết-bàn như nhau là bảo rằng không có sự khác biệt trong cái không của các sự vật hữu vitrạng thái vô vi của Niếtbàn. Phù hợp với Tam tạng Pali, Luân hồi được miêu tả là sự tương tục không dứt của năm uẩn, bốn đạimười hai xứ, trong khi Niết-bàn được miêu tả là sự đoạn diệt của các nguồn gốc liên hệ về vật lýtâm lý ấy.

Tuy nhiên, cũng được thừa nhận rằng những người đạt hạnh phúc Niết-bàn có thể trải nghiệm hạnh phúc ấy trong lúc họ hiện hữu trong Luân hồi. Trong mọi trường hợp, sau khi họ chết đi, sự nối kết với những thành phần kia sẽ bị loại trừ, vì lý do đơn giản rằng Niết-bàn là vô vi, vô liên kết, vô tương liên. Nếu có gì nữa sau Niết-bàn thì đó phải là “Chân lý Tuyệt đối”.

Bạn phải tập tành để được tách ra khỏi việc đời. Nếu còn có sự ràng buộc với ai hay vật gì hoặc còn có sự yêu ghét đối với người nào hay vật nào thì bạn sẽ không bao giờ đạt Niết-bàn, vì Niết-bàn vượt khỏi mọi sự đối nghịch, ràng buộc, và sân hận, ưa thíchchán ghét.

Khi trạng thái tối hậu được đạt, bạn sẽ hoàn toàn hiểu cuộc sống trần gian này mà giờ đây bạn đang khao khát. Cuộc đời này sẽ tăng trưởng để trở thành một đối tượng cho sự ham muốn của bạn. Bạn sẽ nhận ra sầu khổ, vô thườngvô ngã của tất cả những gì sống và không sống. Bằng cách chỉ phụ thuộc vào các bậc thầy hay kinh điển mà không có sự nỗ lực đúng đắn của chính bạn thì khó thể nghiệm Niết-bàn. Những mơ tưởng của bạn sẽ tan biến. Không có lâu đài nào sẽ được xây giữa không trung. Bão tố sẽ ngưng. Những đấu tranh của cuộc đời sẽ chấm dứt. Những quá trình vận hành của tự nhiên sẽ không còn. Tất cả những gì của bạn, lo lắng, khổ đau, trách nhiệm, rối ren, gánh nặng, bệnh tật về vật lýtâm lýcảm xúc sẽ tan biến sau khi bạn đạt được trạng thái hạnh phúc tối thượng của Niết-bàn.

Bảo rằng Niết-bàn là không gì cả chỉ đơn giản là vì người ta không thể cảm nhận nó bằng năm giác quan thì cũng phi lý như bảo rằng ánh sáng không có vì người mù không trông thấy nó.

Niết-bàn có thể được đạt trong đời sống hiện tại này. Phật giáo không bảo rằng mục đích tối hậu chỉ có thể được đạt trong đời sống bên kia. Khi Niết-bàn được chứng nghiệm trong đời sống này mà vẫn còn thân thể thì được gọi là Hữu dư Niết-bàn. Khi một vị A-la-hán đạt Bát-niết-bàn sau khi thân thể tan hủy, không còn tàn dư nào của sự hiện hữu vật lý thì đó là Vô dư Niết-bàn.

Ghi chú:
Xuất xứ: Trích từ chương V, Nibban, trang 102, tác phẩm Anh ngữ What Buddhists Believe của K.Sri Dhammananda, Nxb Buddhist Cultura Center, in lần thứ 6, 1998, Kuala Lumpur, Malaysia. Tác giả: Đại sư K.Sri Dhammananda (1929-2006), người Sri Lanka, Chủ tịch Danh dự Hội Ái hữu Phật tử Thế giới (WFB), tinh thông kinh điển Phạn ngữ, Pali ngữtriết học Ân Độ, tác giả của khoảng 60 tác phẩm viết về Phật giáo.

Trần Tuấn Mẫn | Văn Hóa Phật Giáo Số 327 ngày 1-7-2019
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7603)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6154)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 10021)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7127)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7357)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 7024)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9396)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5881)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7136)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6555)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6136)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7196)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14431)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20506)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9497)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7919)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8222)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7474)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9395)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7477)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7498)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7686)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9501)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8803)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7403)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7987)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7048)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7700)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9887)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8298)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8849)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7699)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8855)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8677)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8014)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9028)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9443)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8767)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8908)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7237)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9204)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8620)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7907)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9658)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10220)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8797)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8410)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7660)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9364)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7504)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15382)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7338)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8523)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12287)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7338)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11533)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8333)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8058)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7932)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8955)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant