Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khanti Parami - Nhẫn Nại Ba-la-mật

14 Tháng Chín 201906:13(Xem: 5008)
Khanti Parami - Nhẫn Nại Ba-la-mật

KHANTI  PARAMI - NHẪN NẠI BA-LA-MẬT

Pháp Hỷ Dhammananda

 
Nhẫn Nại Ba-la-mật

Trong bài thứ hai kệ để sách tấn chư tăng nhân ngày kiết giới (Uposatha), chư Phật dạy:

Khanti paramam tapo titikkha
Nibbanam paramam vadanti buddha 
na hi pabbajito parupaghati
na samano hoti param vihethayanto. (Dhp. 184)

Nhẫn nại là pháp hành tối thượng
Niết bàntối thượng, chư Phật nói
Người xuất gia không làm tổn hại ai.
Người hãm hại người khác thì không phải là Sa-môn. (Pháp Cú 184) 

Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh. Trong kho tàng giáo lý Nguyên Thủy hệ truyền thừa Theravada nói đến 10 Ba-la-mật (Thập Độ), trong khi đó hệ truyền thừa Bắc tông hay Đại Thừa (Mahayana) chỉ nói đến sáu hay Lục Độ.

Thứ tự các Ba-la-mật (pāramī) trong PGNT là: Bố Thí Độ (Dāna pāramī), Giới Hạnh Độ (Sīla pāramī), Xuất ly Độ (Nekkhama pāramī), Trí Tuệ Độ (Paññā pāramī), Tinh tấn độ (Viriya pāramī) và thứ sáu là NHẪN NẠI Độ (KHANTI pāramī). Nhẫn nại là khi đối diện với ngịch cảnh, nghe lời nghịch nhĩ, xúc chạm với các yếu tố khó chịu, khó kham nhẫn mà vẫn an nhiên không sân hận bực bội. Trong một chuyện tiền thân của Đức Phật, khi vua trời Đế Thích hỏi Bồ Tát về hạnh nhẫn nại, ngài trả lời: "Người nhẫn nhịn với lời thô ác của cấp trên thường là vì sợ hãi, nhẫn nhịn với lời thô ác của người ngang vai vế là để tránh cãi cọ hơn thua. Nhưng bậc thiện trí dạy rằng nhẫn nại với kẻ kém cỏi khi kẻ đó nói lời thô ác mới thực sự là nhẫn nại hoàn hảo." (Tiền Thân 55. Sarabhanga Jataka).
Là một trưởng tử Như Lai, ngài Punna (Phú-lâu-na) sau khi xuất gia vì thấy ra sự vô thường của đời sống đã tinh tấn tu học và sau khi thành đạo đã xin đức Thế Tôn được quay về bổn xứ là vùng Sunàparanta để hóa đạo nơi quê hương. Đức Phật hỏi tôn giả Phú-lâu-na rằng dân chúng ở vùng Sunàparanta vốn chưa được văn minh, cư xử thô lỗ, và có thể đối xử với ngài không tốt, vậy -- tôn giả phải làm sao khi họ chửi mắng ông?
_ Con sẽ cảm ơn họ vì chỉ chửi rủa mà không lấy gạch đá ném vào con. - tôn giả Punna trả lời đức Phật.
_ Nếu họ ném gạch đá vào ông? - đức Phật giả định tiếp.
_ Con sẽ vẫn biết ơn họ vì họ đã không dùng gậy gộc đánh con.
_ Vậy nếu họ dùng gậy đánh ông thì sao?
Con sẽ vẫn cám ơn họ vì họ không dùng dao đâm chém con.
_ Vậy nếu họ dùng dao đả thương hay giết chết ông thì sao?
_ Con sẽ cám ơn họ vì nhiều người nhàm chán xác thân này mà tìm cách tự tử, nhưng những người này lại giúp con giải quyết với xác thân này - con cũng nên cám ơn họ."

Nghe những lời hùng tráng như vậy của một người đệ tử mẫu mực trước khi lên đường dấn thân hoằng pháp, đức Phật khen ngợi tôn giả Punna là người có hạnh kham nhẫn đáng nể phục, xứng đáng là trưởng tử Như Lai, mặc pháp phục Như Lai, và ngồi tòa Như Lai.

Câu chuyên của đạo sĩ Khanti Vadi - KHANTIVĀDI-JĀTAKA. 1

Câu chuyện này được đức Phật kể lại tại tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana), nhân duyên để giáo dục một vị tỳ kheo hay tức giận. Đức Thế tôn hỏi vị tỳ kheo này: “Tại sao thầy đã xuất gia trong Pháp và Luật này của bậc Giác Ngộ không còn tàn dư của sân hận, vậy mà thầy lại tức tối phẫn nộ? Những bậc thiện trí trong quá khứ, mặc dù bị tra tấn dã man, bị cắt lìa tay chân, tai, mũi, lưỡi nhưng vẫn bình thản không biểu lộ chút sân nộ nào với kẻ đã làm chuyện tàn độc kia.” Và Thế Tôn kể câu chuyện quá khứ này. 

Ngày xủa ngày xưa ở xứ Kāsi có một ông vua tên là Kalābu trị vì trong thành Ba-la-nại (Benares). Thời đó Bồ tát tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn giàu có với tám mươi vạn nhân 11 triệu US$. Thời trẻ tuổi Bồ tát có tên là Kuṇḍakakumāra, đi du học & được giáo dục chuẩn ở trường đại học Takkasilā về kinh điển Vệ Đà và các khoa học khác. Sau khi tốt nghiệp, Bồ tát an cư lạc nghiệp tại quê hương. 

Khi cha mẹ mãn phần hưởng dương, nhìn đống tài sản kếch xù được thừa hưởng từ gia đình, Bồ tát nghĩ: “Cha mẹ & ông bà mình đã tạo dựng nên sản nghiệp này, họ tích lũy vàng bạc thật nhiều nhưng khi từ giã cõi đời ra đi có ai đem theo được gì đâu. Nay đến lượt ta sở hữu chúng, rồi cũng có lúc ta phải từ giã ra đi.” Nghĩ ngợi rồi ngài cẩn thận lựa những người đức hạnhtài năng trong việc quản lý và phân phối tài sản để làm từ thiện. Sau khi đã cúng tất cả tài sản vào quĩ từ thiện do những người đáng tin cậy đó quản lý, ngài rời đô thị vào vùng Hy Mã Lạp Sơn (Himālaya) để tu hành như một đạo sĩ. ở nơi rừng núi sơn khê, ngài tự nuôi sống bằng hoa quả rừng suốt nhiều năm. Ngài chỉ xuống núi đi hóa duyên khi cần giấm và muối, và từ từ đi đến thành Ba-la-nại, nghỉ ngơi trong lâm viên hoàng gia. Ngày hôm sau ngài đi khất thực trong thành phố cho đến khi đến cổng của nhà tổng tư lệnh quân đội. Nhìn thấy uy nghi cử chỉ thu thúc của vị khất sĩ, tướng quân đã mời ông vào nhà và cúng dường thức ăn đã được làm cho mình. Và sau đó thí chủ tổng tư lệnh quân đội đã mời đạo sĩ đến ngụ trong công viên hoàng gia.

Thời đó có một ngày vua Kalābu cảm thấy bức bối vì đã uống khá nhiều rượu mạnh nên đã ra lệnh cho đoàn tùy tùng gồm các cung nữ & gái nhảy cùng đến công viên hoàng gia để vui chơi. Khi đến nơi, nhà vua cho trải thảm trên một tảng đá hoa cương, rồi nằm thư giãn gối đầu lên bắp vế của một nàng cung nữ xinh đẹp mà vua đang sủng ái. Trong khi đó những ca sĩ đắt show và các nàng vũ nữ thể hiện những ca khúc tình tứ và những màn vũ hấp dẫn nhất mà họ được huấn luyện. Màn giải trí trong công viên hoàng gia này thể hiện sự giàu có & quyền lực, độ hoành tráng của một ông vua không khác gì thượng đế. Nhưng trong khi các ca vũ đang biểu diễn thì vua lại ngủ thiếp đi.  Những cung nữ đó nghĩ: “chúng ta biểu diễn để phục vụ đức vua, nhưng nay hoàng thượng lại ngủ ngon lành thế, vậy thì máu hát có ích gì nữa chứ?” Nghĩ vậy rồi họ xếp các nhạc cụ lại, tản bộ thưởng thức hoa thơm cỏ lạ trong công viên, không mấy chốc đã mất hút giữa rừng hoa & cây cảnh.

Cũng trong lúc đó Bồ tát đang ngồi thiền trong công viên, như một long tượng uy nghi dưới gốc cây Sa-la đầy hoa, vui hưởng hiện tại lạc trú. Những cung nữ và vũ nữ kia cũng dạo bước đến nơi Bồ tát đang ngồi, họ ra hiệu cho nhau đến gần ngồi vây quanh Bồ Tát với mong muốn được nghe pháp từ bậc đạo sĩ khả kính. Họ đảnh lễ đạo sĩ, ngồi xuống xung quanh và thỉnh ngài thuyết pháp. Bồ tát đã chấp nhận lời thingr cầu cảu họ và đã thuyết pháp.

Trong khi đó nàng cung nữ hầu cận đức vua vì mỏi nên đã đổi tư thế, khiến hoàng thượng thức giức. Tỉnh dậy không thấy các cung nữ và ca kỹ vũ nữ vây quanh để hầu hạ, đức vua rất bực mình. Hoàng thượng cất giọng bực bội hỏi: “Lũ chết tiệt kia đi đâu hết rồi?” người cung nữ kính cẩn: “muôn tâu hoàng thượng, họ đã đi đến nơi có vị đạo sĩ và đang nghe pháp.”  Nghe vậy nhà vua cảm thấy tức tối hơn, ông ta tuốt gươm và bật dậy đi đến nơi vị đạo sĩ đang thuyết pháp với ý nghĩ; “Trẫm sẽ cho gã đạo sĩ dổm này một bài học đích đáng.” Khi thấy nhà vua đi đến đằng đằng sát khí như vậy, các cung nữ thê thiếp được sủng ái nhất vội chạy đến quì xin và cố lấy thanh gương trong tay hoàng thượng.Nhưng vị vua vẫn hung hãn tiến đến gần đạo sĩ với thanh gươm tuốt trần với lời thách thức:

-         “Ông đạo sĩ đang dạy đạo gì?”

-         Kính hoàng thượng, bần đạo dạy hạnh kham nhẫn ạ.

-         Hạnh kham nhẫn ông dạy ấy ra sao?

-         Thưa là khoogn giận dữ ngay cả khi có người chửi rủa, đánh đập và chà đạp mình.

-         Ta sẽ thấy sự thật vị đạo sĩ này thể hiện sự nhẫn nại như thế nào nào!

Ông vua đang điên cuồng vì sân nộ gầm gừ gọi người đồ tể đến. Người đồ tể đến với búa, cưa và bàn chông. Quấn mảnh vải vàng và choàng thêm tấm vải đỏ, Y đảnh lễ vị vua hung ác và hởi xin mệnh lệnh:

-         Tâu Bệ Hạ cần thần làm gì để ngài vui?  

-         Tới tóm cổđạo sĩ dõm này cho ta. Quẳng hắn lên bàn chông và trói chặt vào đó." Tên đồ tể tuân lệnh vua, ghì chặt Bồ tát xuống bàn chông và cột lại. Tiếp đến Y cắt da thịt Bồ tát theo từng nhát sắc lẹm khiến máu chảy lênh láng. Nhà vua hung ác hỏi với giọng khinh mạn lạnh tanh:

-         "Có phải ông vẫn dạy kham nhẫn không Đạo sĩ? "

-         "Vâng, bần đạo dạy kham nhẫn thưa hoàng thượng.” – đạo sĩ trả lời.

-         "Bệ hạ đừng nghĩ rằng hạnh kham nhẫn cảu bần đạo nằm ở da thịt này. Nó không chỉ là cái ngoài da, nó nằm sâu trong trái tim bần đạo. Đức kham nhẫn đó ngài khoogn thấy được đâu.”

Gã đồ tể lại hỏi xin lệnh:

-         Tâu bệ hạ thích làm gì nữa?

-         Hãy cắt cả tay và chân của đạo sĩ bố láo này đi!  

Thế là gã đồ tể cầm lấy chiếc búa và chặt đứt tay chân của đạo sĩ kiên cường theo từng mệnh lệnh của nhà vua tàn ác. Máu chảy lênh láng từ tay và chân đã bị chặt của Bồ tát như sơn dầu chảy ra từ thùng chứa bị bể. Thêm lần nữa, ông vua mỉa mai hỏi đạo sĩ:

-         Ông có tuyên thuyết cái kham nhẫn đó nữa không?

-         Bần đạo vẫn dạy kham nhẫn thưa hoàng thượng. Ngài tưởng rằng hạnh kham nhẫn của bần đạo nằm ở tay chân ư? Nhưng không phải đâu, Nhẫn Độbần đạo thực hành không nằm ở những chỗ đó.

-         "Cắt mũi và tai của hắn đi!” nhà vua gầm lên trong tức tối.

Gã đồ tể tuân lệnh và máu lại chảy nhiều hơn. Toàn thân và đầu mặt của đạo sĩ đều nhuốm máu. Một lần nữa ông vua tàn ác lại gằn giọng hỏi đạo sĩ về triết thuyết mà ngài dạy. Đạo sĩ vẫn ẩn nhẫn và bình thản trả lời:

-          "Đừng nghĩ rằng nhẫn độ cảu bần đạo nằm ở chóp mũi, tai hay đầu môi. Nhẫn độbần đạo thực hành nằm sâu nơi trái tim này.”

-         "Nằm yên đó, tên đạo sĩ dỏm” – vua thét lên đầy hằn học. Rồi ông ta giẫm đạp lên ngực đạo sĩ Bồ Tát đang hấp hối vì mất máu. Giẫm đạp đã tức rồi ông vua độc ác khệnh khạng bước đi ra khỏi lâm viên hoàng gia.

Khi ông vua đó rời đi rồi, vị tổng tư lệnh quân đội chúi máu trên người Bồ tát và băng bó cho người. Sau đó vị tướng quân nhẹ nhàng đặt Bồ Tát cơ thể lên một chỗ ngồi soạn sẵn rồi đảnh lễ Bồ tát. Ngồi xuống một bên, vị tư lệnh quân đội nói: 

-         "Nếu ngài, thưa ẩn sĩ tôn kính, có giận dữ thì xin chỉ giận dữ với người đã gây tội lỗi lên ngài, xin đừng nguyền rủa những người khác.

Rồi vị tướng nói thành thơ kệ như sau:

“Đến ai đã cắt mũi và tai, chặt đứt chân và tay,

Hãy bắt tội kẻ đó – người xứng đáng nhận phẫn nộ.

Bậc anh hùng, xin hãy chừa người dân vô tội,

Và xin đừng nguyền rủa đất này.”

Nghe vậy, Bồ Tát đáp lại như sau:

“Vạn tuế nhà vua – người độc ác đã làm máu chảy tràn thân này

Nhưng linh hồn trong sạch như ta không vì khủng bố mà nhuốm bẩn bởi giận dữ.”

Khi ông vua độc ác chỉ mới đi ra khỏi tầm mắt cảu đạo sĩ, mặt đất vốn dày 2400 hải lý mở toác ra nuốt lấy con người tội lỗi đó với ngọn lửa từ địa ngục Vô Gián. Ngọn lửa đại địa ngục đã nuốt chửng vị vua làm điều ô nhục tội lỗi và khiến cho hoàng bào của vua hóa thạch ngay nơi cổng của lâm viên hoàng gia. Bồ tát mệnh chung ngay ngày hôm đó. Người của hoàng tộc đã hỏa táng nhục thân Bồ Tát bằng nhiều loại hương liệu. Một số người nói thần thức ngài trực chỉ lại Himālayas. Nhưng một số lại nói không phải như vậy.

Vị thánh tử đạo xưa, người kể,

Thể hiện khí chất anh hùng

Sức mạnh thánh thiện trước khổ đau bất công

Mà vua Kāsi đã giết hại.

Nợ máu dù hối hận than trời

Vua tàn ác vẫn phải trả đủ

Nơi địa ngục a tỳ muôn kiếp

Đớn đau không kẻ xiết.

Đó là hai khổ thở nói về duyên nghiệp tiền kiếp.

Sau khi nghe tích truyện này, vị tỳ kheo hay phẫn nộ kia buông được tâm phẫn uất và đạt đến quả thánh Nhất Lai. Bậc Đạo Sư cũng nận diện tiền thân ngài là đạo sĩ Khantivadi, Đề Bà đạt đa là vua xấu ác Kalābu của thành Kāsi, Sāriputta là vị tướng chỉ huy quân đội.

Viết thêm:

HÔM NAY CHIA sẻ về đề tài nhẫn nại Bala mật, và gặp câu hỏi: làm sao để NHẪN khi thấy biết những sự việc bất công và đau lòng trong xã hội? Vâng, đây là một câu hỏi hay, đúng lúc đúng thời. Có nên nhẫn chịu với bạo lực gia đình không? nên làm gì khi gặp kẻ vũ phu/ kẻ chỉ muốn lợi dụng sự yếu đuối hay sự chịu đựng của người khác để nói càn làm càn?
NHẪN phải thực hành cùng TRÍ TUỆ & TÂM QUYẾT ĐỊNH thì mới trở thành Ba-la-mật. Nhẫn không phải là chịu đựng vì mình yếu thế chưa làm gì được, đang phải sống lệ thuộc vào người khác nên phải nhường nhịn. Nhẫn như vậy thì đúng là nhẫn với trái tim bị dao đâm, nhưng đó là chịu đựng thì đúng hơn. Và trái tim bị tổn thương nếu không tự làm lành thì trong tương lai có thể đổ những khổ đau dằn vặt mà nó đã chịu đựng trước đó lên người khác. đó là "the abused ones learn to abuse" - những kẻ bị lạm dụng học (thói) lạm dụng
Nhẫn với trí tuệ là thấy nhân quả nghiệp báo. Vì thấy nhân quả nghiệp báo nên không oán trách, mà chỉ tìm cách thoát ra khỏi ác nghiệp, không vì người khác gây oan trái mà mình cũng 'dự phần' vào trong đó, cùng gây oan trái với người để rồi oán oan tương báo, cùng cộng nghiệp với nhau. Nếu nhẫn mà không giúp người tạo nghiệp ác thấy ra tội lỗi và học cách ngừng tạo nghiệp ác, thì nhẫn đó không phải là sức mạnh & trí tuệ. Nếu nhẫn mà chỉ khiến cho người ta vô minh và càng ngày càng lún sâu vào ác nghiệp, cho việc làm ác, làm tổn thương người khác là chuyện bình thường thì cái nhẫn đó chỉ tiếp tay cho cái xấu ác, không mang lại lợi ích gì cho mình cho người.
Có một ông VN đem cả gia đình sang định cư ở Úc. Anh ta có thói quen thượng cẳng chân hạ cẳng tay với vợ và xem đó là chuyện bình thường giữa vợ và chồng. Nhưng khi chuyện bạo hành trong gia đình này được báo với cảnh sát, ông chồng vũ phu đó đã bị cảnh sát còng tay cho vào bốt hơn 1 tuần. Ông ta la lối nói chuyện chồng đánh vợ ở VN là chuyện thường tình, anh ta không phạm tội để phải ngồi tù. Cảnh sát & các nhà hoạt động xã hội ở Úc đã giáo dục anh ta rằng đó là tội lỗicần phải bị trừng phạt. Ông ta tỏ ra không phục, và họ phải nói với ông ta là nếu muốn đánh vợ mà không bị trừng phạt thì cứ về Việt nam mà sống đi! Nước Úc và các quốc gia tiến bộ khác khoogn chấp nhận nạn bạo hành gia đình, không chấp nhận chuyện người đàn ông hay người khỏe hơn về thể lực có thể sử dụng bạo lực để bắt người khác làm theo ý mình. Sau đó ông ta được lệnh không được đến gần người phụ nữ đã bị ông ta đánh trong vòng 50 thước. Nếu bị phát hiện đến gần nạn nhân, ông ta sẽ bị nhốt vô khám lại.
Mong rằng ở VN cũng có những luật lệ nghiêm minh hơn để bảo vệ phụ nữ và trẻ em khỏi những kẻ vũ phu, những kẻ dùng bạo lực hay dọa nạt để bắt người khác tuân thủ ý muốn
Khi được đề nghị mở trường giúp bé gái học tập (girl education), mình nói tôi muốn cả boys và girls cùng được giáo dục tốt. Vì nếu Boys không được giáo dục tốt thì sẽ như mấy gã vũ phu này, chỉ làm khổ người khác, gieo rắc đau thương tai họa lên cả hai thế hệ.

Tỳ Khưu Ni Pháp Hỷ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9986)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7090)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7333)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6990)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9353)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5835)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7100)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6521)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6099)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7161)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14385)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20436)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9473)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7869)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8185)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7450)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9375)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7445)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7479)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7666)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9473)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8781)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7372)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7957)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7012)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7670)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9859)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8284)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8835)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7669)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8825)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8629)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8001)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9011)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9429)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8734)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8880)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7226)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9184)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8599)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7889)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9619)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10165)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8761)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8372)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7629)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9330)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7479)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15352)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7301)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8479)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12239)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7302)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11493)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8316)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8041)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7904)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8920)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7410)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(Xem: 18179)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant