Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khanti Parami - Nhẫn Nại Ba-la-mật

14 Tháng Chín 201906:13(Xem: 4969)
Khanti Parami - Nhẫn Nại Ba-la-mật

KHANTI  PARAMI - NHẪN NẠI BA-LA-MẬT

Pháp Hỷ Dhammananda

 
Nhẫn Nại Ba-la-mật

Trong bài thứ hai kệ để sách tấn chư tăng nhân ngày kiết giới (Uposatha), chư Phật dạy:

Khanti paramam tapo titikkha
Nibbanam paramam vadanti buddha 
na hi pabbajito parupaghati
na samano hoti param vihethayanto. (Dhp. 184)

Nhẫn nại là pháp hành tối thượng
Niết bàntối thượng, chư Phật nói
Người xuất gia không làm tổn hại ai.
Người hãm hại người khác thì không phải là Sa-môn. (Pháp Cú 184) 

Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh. Trong kho tàng giáo lý Nguyên Thủy hệ truyền thừa Theravada nói đến 10 Ba-la-mật (Thập Độ), trong khi đó hệ truyền thừa Bắc tông hay Đại Thừa (Mahayana) chỉ nói đến sáu hay Lục Độ.

Thứ tự các Ba-la-mật (pāramī) trong PGNT là: Bố Thí Độ (Dāna pāramī), Giới Hạnh Độ (Sīla pāramī), Xuất ly Độ (Nekkhama pāramī), Trí Tuệ Độ (Paññā pāramī), Tinh tấn độ (Viriya pāramī) và thứ sáu là NHẪN NẠI Độ (KHANTI pāramī). Nhẫn nại là khi đối diện với ngịch cảnh, nghe lời nghịch nhĩ, xúc chạm với các yếu tố khó chịu, khó kham nhẫn mà vẫn an nhiên không sân hận bực bội. Trong một chuyện tiền thân của Đức Phật, khi vua trời Đế Thích hỏi Bồ Tát về hạnh nhẫn nại, ngài trả lời: "Người nhẫn nhịn với lời thô ác của cấp trên thường là vì sợ hãi, nhẫn nhịn với lời thô ác của người ngang vai vế là để tránh cãi cọ hơn thua. Nhưng bậc thiện trí dạy rằng nhẫn nại với kẻ kém cỏi khi kẻ đó nói lời thô ác mới thực sự là nhẫn nại hoàn hảo." (Tiền Thân 55. Sarabhanga Jataka).
Là một trưởng tử Như Lai, ngài Punna (Phú-lâu-na) sau khi xuất gia vì thấy ra sự vô thường của đời sống đã tinh tấn tu học và sau khi thành đạo đã xin đức Thế Tôn được quay về bổn xứ là vùng Sunàparanta để hóa đạo nơi quê hương. Đức Phật hỏi tôn giả Phú-lâu-na rằng dân chúng ở vùng Sunàparanta vốn chưa được văn minh, cư xử thô lỗ, và có thể đối xử với ngài không tốt, vậy -- tôn giả phải làm sao khi họ chửi mắng ông?
_ Con sẽ cảm ơn họ vì chỉ chửi rủa mà không lấy gạch đá ném vào con. - tôn giả Punna trả lời đức Phật.
_ Nếu họ ném gạch đá vào ông? - đức Phật giả định tiếp.
_ Con sẽ vẫn biết ơn họ vì họ đã không dùng gậy gộc đánh con.
_ Vậy nếu họ dùng gậy đánh ông thì sao?
Con sẽ vẫn cám ơn họ vì họ không dùng dao đâm chém con.
_ Vậy nếu họ dùng dao đả thương hay giết chết ông thì sao?
_ Con sẽ cám ơn họ vì nhiều người nhàm chán xác thân này mà tìm cách tự tử, nhưng những người này lại giúp con giải quyết với xác thân này - con cũng nên cám ơn họ."

Nghe những lời hùng tráng như vậy của một người đệ tử mẫu mực trước khi lên đường dấn thân hoằng pháp, đức Phật khen ngợi tôn giả Punna là người có hạnh kham nhẫn đáng nể phục, xứng đáng là trưởng tử Như Lai, mặc pháp phục Như Lai, và ngồi tòa Như Lai.

Câu chuyên của đạo sĩ Khanti Vadi - KHANTIVĀDI-JĀTAKA. 1

Câu chuyện này được đức Phật kể lại tại tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana), nhân duyên để giáo dục một vị tỳ kheo hay tức giận. Đức Thế tôn hỏi vị tỳ kheo này: “Tại sao thầy đã xuất gia trong Pháp và Luật này của bậc Giác Ngộ không còn tàn dư của sân hận, vậy mà thầy lại tức tối phẫn nộ? Những bậc thiện trí trong quá khứ, mặc dù bị tra tấn dã man, bị cắt lìa tay chân, tai, mũi, lưỡi nhưng vẫn bình thản không biểu lộ chút sân nộ nào với kẻ đã làm chuyện tàn độc kia.” Và Thế Tôn kể câu chuyện quá khứ này. 

Ngày xủa ngày xưa ở xứ Kāsi có một ông vua tên là Kalābu trị vì trong thành Ba-la-nại (Benares). Thời đó Bồ tát tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn giàu có với tám mươi vạn nhân 11 triệu US$. Thời trẻ tuổi Bồ tát có tên là Kuṇḍakakumāra, đi du học & được giáo dục chuẩn ở trường đại học Takkasilā về kinh điển Vệ Đà và các khoa học khác. Sau khi tốt nghiệp, Bồ tát an cư lạc nghiệp tại quê hương. 

Khi cha mẹ mãn phần hưởng dương, nhìn đống tài sản kếch xù được thừa hưởng từ gia đình, Bồ tát nghĩ: “Cha mẹ & ông bà mình đã tạo dựng nên sản nghiệp này, họ tích lũy vàng bạc thật nhiều nhưng khi từ giã cõi đời ra đi có ai đem theo được gì đâu. Nay đến lượt ta sở hữu chúng, rồi cũng có lúc ta phải từ giã ra đi.” Nghĩ ngợi rồi ngài cẩn thận lựa những người đức hạnhtài năng trong việc quản lý và phân phối tài sản để làm từ thiện. Sau khi đã cúng tất cả tài sản vào quĩ từ thiện do những người đáng tin cậy đó quản lý, ngài rời đô thị vào vùng Hy Mã Lạp Sơn (Himālaya) để tu hành như một đạo sĩ. ở nơi rừng núi sơn khê, ngài tự nuôi sống bằng hoa quả rừng suốt nhiều năm. Ngài chỉ xuống núi đi hóa duyên khi cần giấm và muối, và từ từ đi đến thành Ba-la-nại, nghỉ ngơi trong lâm viên hoàng gia. Ngày hôm sau ngài đi khất thực trong thành phố cho đến khi đến cổng của nhà tổng tư lệnh quân đội. Nhìn thấy uy nghi cử chỉ thu thúc của vị khất sĩ, tướng quân đã mời ông vào nhà và cúng dường thức ăn đã được làm cho mình. Và sau đó thí chủ tổng tư lệnh quân đội đã mời đạo sĩ đến ngụ trong công viên hoàng gia.

Thời đó có một ngày vua Kalābu cảm thấy bức bối vì đã uống khá nhiều rượu mạnh nên đã ra lệnh cho đoàn tùy tùng gồm các cung nữ & gái nhảy cùng đến công viên hoàng gia để vui chơi. Khi đến nơi, nhà vua cho trải thảm trên một tảng đá hoa cương, rồi nằm thư giãn gối đầu lên bắp vế của một nàng cung nữ xinh đẹp mà vua đang sủng ái. Trong khi đó những ca sĩ đắt show và các nàng vũ nữ thể hiện những ca khúc tình tứ và những màn vũ hấp dẫn nhất mà họ được huấn luyện. Màn giải trí trong công viên hoàng gia này thể hiện sự giàu có & quyền lực, độ hoành tráng của một ông vua không khác gì thượng đế. Nhưng trong khi các ca vũ đang biểu diễn thì vua lại ngủ thiếp đi.  Những cung nữ đó nghĩ: “chúng ta biểu diễn để phục vụ đức vua, nhưng nay hoàng thượng lại ngủ ngon lành thế, vậy thì máu hát có ích gì nữa chứ?” Nghĩ vậy rồi họ xếp các nhạc cụ lại, tản bộ thưởng thức hoa thơm cỏ lạ trong công viên, không mấy chốc đã mất hút giữa rừng hoa & cây cảnh.

Cũng trong lúc đó Bồ tát đang ngồi thiền trong công viên, như một long tượng uy nghi dưới gốc cây Sa-la đầy hoa, vui hưởng hiện tại lạc trú. Những cung nữ và vũ nữ kia cũng dạo bước đến nơi Bồ tát đang ngồi, họ ra hiệu cho nhau đến gần ngồi vây quanh Bồ Tát với mong muốn được nghe pháp từ bậc đạo sĩ khả kính. Họ đảnh lễ đạo sĩ, ngồi xuống xung quanh và thỉnh ngài thuyết pháp. Bồ tát đã chấp nhận lời thingr cầu cảu họ và đã thuyết pháp.

Trong khi đó nàng cung nữ hầu cận đức vua vì mỏi nên đã đổi tư thế, khiến hoàng thượng thức giức. Tỉnh dậy không thấy các cung nữ và ca kỹ vũ nữ vây quanh để hầu hạ, đức vua rất bực mình. Hoàng thượng cất giọng bực bội hỏi: “Lũ chết tiệt kia đi đâu hết rồi?” người cung nữ kính cẩn: “muôn tâu hoàng thượng, họ đã đi đến nơi có vị đạo sĩ và đang nghe pháp.”  Nghe vậy nhà vua cảm thấy tức tối hơn, ông ta tuốt gươm và bật dậy đi đến nơi vị đạo sĩ đang thuyết pháp với ý nghĩ; “Trẫm sẽ cho gã đạo sĩ dổm này một bài học đích đáng.” Khi thấy nhà vua đi đến đằng đằng sát khí như vậy, các cung nữ thê thiếp được sủng ái nhất vội chạy đến quì xin và cố lấy thanh gương trong tay hoàng thượng.Nhưng vị vua vẫn hung hãn tiến đến gần đạo sĩ với thanh gươm tuốt trần với lời thách thức:

-         “Ông đạo sĩ đang dạy đạo gì?”

-         Kính hoàng thượng, bần đạo dạy hạnh kham nhẫn ạ.

-         Hạnh kham nhẫn ông dạy ấy ra sao?

-         Thưa là khoogn giận dữ ngay cả khi có người chửi rủa, đánh đập và chà đạp mình.

-         Ta sẽ thấy sự thật vị đạo sĩ này thể hiện sự nhẫn nại như thế nào nào!

Ông vua đang điên cuồng vì sân nộ gầm gừ gọi người đồ tể đến. Người đồ tể đến với búa, cưa và bàn chông. Quấn mảnh vải vàng và choàng thêm tấm vải đỏ, Y đảnh lễ vị vua hung ác và hởi xin mệnh lệnh:

-         Tâu Bệ Hạ cần thần làm gì để ngài vui?  

-         Tới tóm cổđạo sĩ dõm này cho ta. Quẳng hắn lên bàn chông và trói chặt vào đó." Tên đồ tể tuân lệnh vua, ghì chặt Bồ tát xuống bàn chông và cột lại. Tiếp đến Y cắt da thịt Bồ tát theo từng nhát sắc lẹm khiến máu chảy lênh láng. Nhà vua hung ác hỏi với giọng khinh mạn lạnh tanh:

-         "Có phải ông vẫn dạy kham nhẫn không Đạo sĩ? "

-         "Vâng, bần đạo dạy kham nhẫn thưa hoàng thượng.” – đạo sĩ trả lời.

-         "Bệ hạ đừng nghĩ rằng hạnh kham nhẫn cảu bần đạo nằm ở da thịt này. Nó không chỉ là cái ngoài da, nó nằm sâu trong trái tim bần đạo. Đức kham nhẫn đó ngài khoogn thấy được đâu.”

Gã đồ tể lại hỏi xin lệnh:

-         Tâu bệ hạ thích làm gì nữa?

-         Hãy cắt cả tay và chân của đạo sĩ bố láo này đi!  

Thế là gã đồ tể cầm lấy chiếc búa và chặt đứt tay chân của đạo sĩ kiên cường theo từng mệnh lệnh của nhà vua tàn ác. Máu chảy lênh láng từ tay và chân đã bị chặt của Bồ tát như sơn dầu chảy ra từ thùng chứa bị bể. Thêm lần nữa, ông vua mỉa mai hỏi đạo sĩ:

-         Ông có tuyên thuyết cái kham nhẫn đó nữa không?

-         Bần đạo vẫn dạy kham nhẫn thưa hoàng thượng. Ngài tưởng rằng hạnh kham nhẫn của bần đạo nằm ở tay chân ư? Nhưng không phải đâu, Nhẫn Độbần đạo thực hành không nằm ở những chỗ đó.

-         "Cắt mũi và tai của hắn đi!” nhà vua gầm lên trong tức tối.

Gã đồ tể tuân lệnh và máu lại chảy nhiều hơn. Toàn thân và đầu mặt của đạo sĩ đều nhuốm máu. Một lần nữa ông vua tàn ác lại gằn giọng hỏi đạo sĩ về triết thuyết mà ngài dạy. Đạo sĩ vẫn ẩn nhẫn và bình thản trả lời:

-          "Đừng nghĩ rằng nhẫn độ cảu bần đạo nằm ở chóp mũi, tai hay đầu môi. Nhẫn độbần đạo thực hành nằm sâu nơi trái tim này.”

-         "Nằm yên đó, tên đạo sĩ dỏm” – vua thét lên đầy hằn học. Rồi ông ta giẫm đạp lên ngực đạo sĩ Bồ Tát đang hấp hối vì mất máu. Giẫm đạp đã tức rồi ông vua độc ác khệnh khạng bước đi ra khỏi lâm viên hoàng gia.

Khi ông vua đó rời đi rồi, vị tổng tư lệnh quân đội chúi máu trên người Bồ tát và băng bó cho người. Sau đó vị tướng quân nhẹ nhàng đặt Bồ Tát cơ thể lên một chỗ ngồi soạn sẵn rồi đảnh lễ Bồ tát. Ngồi xuống một bên, vị tư lệnh quân đội nói: 

-         "Nếu ngài, thưa ẩn sĩ tôn kính, có giận dữ thì xin chỉ giận dữ với người đã gây tội lỗi lên ngài, xin đừng nguyền rủa những người khác.

Rồi vị tướng nói thành thơ kệ như sau:

“Đến ai đã cắt mũi và tai, chặt đứt chân và tay,

Hãy bắt tội kẻ đó – người xứng đáng nhận phẫn nộ.

Bậc anh hùng, xin hãy chừa người dân vô tội,

Và xin đừng nguyền rủa đất này.”

Nghe vậy, Bồ Tát đáp lại như sau:

“Vạn tuế nhà vua – người độc ác đã làm máu chảy tràn thân này

Nhưng linh hồn trong sạch như ta không vì khủng bố mà nhuốm bẩn bởi giận dữ.”

Khi ông vua độc ác chỉ mới đi ra khỏi tầm mắt cảu đạo sĩ, mặt đất vốn dày 2400 hải lý mở toác ra nuốt lấy con người tội lỗi đó với ngọn lửa từ địa ngục Vô Gián. Ngọn lửa đại địa ngục đã nuốt chửng vị vua làm điều ô nhục tội lỗi và khiến cho hoàng bào của vua hóa thạch ngay nơi cổng của lâm viên hoàng gia. Bồ tát mệnh chung ngay ngày hôm đó. Người của hoàng tộc đã hỏa táng nhục thân Bồ Tát bằng nhiều loại hương liệu. Một số người nói thần thức ngài trực chỉ lại Himālayas. Nhưng một số lại nói không phải như vậy.

Vị thánh tử đạo xưa, người kể,

Thể hiện khí chất anh hùng

Sức mạnh thánh thiện trước khổ đau bất công

Mà vua Kāsi đã giết hại.

Nợ máu dù hối hận than trời

Vua tàn ác vẫn phải trả đủ

Nơi địa ngục a tỳ muôn kiếp

Đớn đau không kẻ xiết.

Đó là hai khổ thở nói về duyên nghiệp tiền kiếp.

Sau khi nghe tích truyện này, vị tỳ kheo hay phẫn nộ kia buông được tâm phẫn uất và đạt đến quả thánh Nhất Lai. Bậc Đạo Sư cũng nận diện tiền thân ngài là đạo sĩ Khantivadi, Đề Bà đạt đa là vua xấu ác Kalābu của thành Kāsi, Sāriputta là vị tướng chỉ huy quân đội.

Viết thêm:

HÔM NAY CHIA sẻ về đề tài nhẫn nại Bala mật, và gặp câu hỏi: làm sao để NHẪN khi thấy biết những sự việc bất công và đau lòng trong xã hội? Vâng, đây là một câu hỏi hay, đúng lúc đúng thời. Có nên nhẫn chịu với bạo lực gia đình không? nên làm gì khi gặp kẻ vũ phu/ kẻ chỉ muốn lợi dụng sự yếu đuối hay sự chịu đựng của người khác để nói càn làm càn?
NHẪN phải thực hành cùng TRÍ TUỆ & TÂM QUYẾT ĐỊNH thì mới trở thành Ba-la-mật. Nhẫn không phải là chịu đựng vì mình yếu thế chưa làm gì được, đang phải sống lệ thuộc vào người khác nên phải nhường nhịn. Nhẫn như vậy thì đúng là nhẫn với trái tim bị dao đâm, nhưng đó là chịu đựng thì đúng hơn. Và trái tim bị tổn thương nếu không tự làm lành thì trong tương lai có thể đổ những khổ đau dằn vặt mà nó đã chịu đựng trước đó lên người khác. đó là "the abused ones learn to abuse" - những kẻ bị lạm dụng học (thói) lạm dụng
Nhẫn với trí tuệ là thấy nhân quả nghiệp báo. Vì thấy nhân quả nghiệp báo nên không oán trách, mà chỉ tìm cách thoát ra khỏi ác nghiệp, không vì người khác gây oan trái mà mình cũng 'dự phần' vào trong đó, cùng gây oan trái với người để rồi oán oan tương báo, cùng cộng nghiệp với nhau. Nếu nhẫn mà không giúp người tạo nghiệp ác thấy ra tội lỗi và học cách ngừng tạo nghiệp ác, thì nhẫn đó không phải là sức mạnh & trí tuệ. Nếu nhẫn mà chỉ khiến cho người ta vô minh và càng ngày càng lún sâu vào ác nghiệp, cho việc làm ác, làm tổn thương người khác là chuyện bình thường thì cái nhẫn đó chỉ tiếp tay cho cái xấu ác, không mang lại lợi ích gì cho mình cho người.
Có một ông VN đem cả gia đình sang định cư ở Úc. Anh ta có thói quen thượng cẳng chân hạ cẳng tay với vợ và xem đó là chuyện bình thường giữa vợ và chồng. Nhưng khi chuyện bạo hành trong gia đình này được báo với cảnh sát, ông chồng vũ phu đó đã bị cảnh sát còng tay cho vào bốt hơn 1 tuần. Ông ta la lối nói chuyện chồng đánh vợ ở VN là chuyện thường tình, anh ta không phạm tội để phải ngồi tù. Cảnh sát & các nhà hoạt động xã hội ở Úc đã giáo dục anh ta rằng đó là tội lỗicần phải bị trừng phạt. Ông ta tỏ ra không phục, và họ phải nói với ông ta là nếu muốn đánh vợ mà không bị trừng phạt thì cứ về Việt nam mà sống đi! Nước Úc và các quốc gia tiến bộ khác khoogn chấp nhận nạn bạo hành gia đình, không chấp nhận chuyện người đàn ông hay người khỏe hơn về thể lực có thể sử dụng bạo lực để bắt người khác làm theo ý mình. Sau đó ông ta được lệnh không được đến gần người phụ nữ đã bị ông ta đánh trong vòng 50 thước. Nếu bị phát hiện đến gần nạn nhân, ông ta sẽ bị nhốt vô khám lại.
Mong rằng ở VN cũng có những luật lệ nghiêm minh hơn để bảo vệ phụ nữ và trẻ em khỏi những kẻ vũ phu, những kẻ dùng bạo lực hay dọa nạt để bắt người khác tuân thủ ý muốn
Khi được đề nghị mở trường giúp bé gái học tập (girl education), mình nói tôi muốn cả boys và girls cùng được giáo dục tốt. Vì nếu Boys không được giáo dục tốt thì sẽ như mấy gã vũ phu này, chỉ làm khổ người khác, gieo rắc đau thương tai họa lên cả hai thế hệ.

Tỳ Khưu Ni Pháp Hỷ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6085)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9347)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6401)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5968)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7480)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7302)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5180)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8055)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5917)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9579)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7374)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7370)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6205)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5301)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5849)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5648)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3956)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5688)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4075)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7513)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5711)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21880)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5592)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7039)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5005)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6434)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5795)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5003)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7046)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6036)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5558)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5871)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 5993)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6807)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6427)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6071)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6458)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6142)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6344)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5586)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6892)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4557)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7771)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6010)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7265)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7693)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5486)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5137)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5645)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5509)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5513)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5011)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4256)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6033)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5625)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6278)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8523)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5229)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5789)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant