Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con Đường “ Trung Đạo” Từ Nguyên Thủy Sang Đại Thừa

02 Tháng Mười 201905:24(Xem: 6330)
Con Đường “ Trung Đạo” Từ Nguyên Thủy Sang Đại Thừa

Con Đường “ Trung Đạo” Từ Nguyên Thủy Sang Đại Thừa  

Đức Ân


Con Đường “ Trung Đạo” Từ Nguyên Thủy Sang Đại Thừa

Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật, sau khi tận hưởng cuộc sống dục lạc trong cung điện hoàng giatrải qua sáu năm thực hành khổ hạnh, Ngài đã đạt được giác ngộ dưới cội cây bồ-đề.

Phật giáo Nguyên thuỷ (Theravada) định nghĩa trung đạo là sự từ bỏ hai cực đoan: hưởng thụ dục lạcthực hành khổ hạnh. Đây được gọi là căn bản nhất của con đường trung đạo. Một quan điểm khác của Trung đạo là sự xa rời hai quan điểm: thường hằng (āśvata) và đoạn diệt (uccheda).

Trong khi Phật giáo Đại thừa (Mahāyāna) đề cập trung đạo gắn liền về mặt nhận thức, điều này được thể hiện qua tinh thần không chấp trước, thường phủ nhận sự bảo thủ về các quan điểm. Từ ý nghĩa của việc không chấp vào bất kỳ thiên kiến nào đồng thời y cứDuyên khởitánh Không (śūnyatā) để hình thành triết học Trung đạo được xem là đóng góp nổi bật của ngài Long Thọ (Nāgārjuna).

Trung đạo là sự tránh xa hai cực đoan: dục lạckhổ hạnh

Trong kinh Vô tránh Phân biệt (Araṇavibhanga Sutta [Mn. 139]) Đức Phật đã nói với các vị Tỳ-kheo:

“… chớ có hành trì dục lạc, hạ liệt, đê tiện, phàm phu không xứng bậc thánh, không liên hệ mục đích. Và cũng không nên hành trì tự kỷ khổ hạnh, đau khổ, không xứng bậc thánh, không liên hệ mục đích. Từ bỏ hai cực đoan ấy, có con đường trung đạo đã được Như Lai giác ngộ, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, niết-bàn”1 .

Đức Phật khuyên mọi người không nên rơi vào hai lối sống buông thả, tham đắm và khắc khổ. Hai lối sống này không có lợi cho bản thân và người khác.

Lối sống buông thả dục lạc là gì? Đó là chủ nghĩa duy vật của Ajita Kesakambali sống vào thế kỷ thứ VI trước tây lịch tại Ấn Độ, đã chủ trương rằng:

“… không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có mẹ, không có cha, không có các loại hoá sanh, ở đời không có các vị sa-môn, những vị bàla-môn, chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình chứng tri giác ngộ đời này đời khác và truyền dạy lại. Con người này do bốn đại hợp thành, khi mệnh chung, địa đại trở về trả lại cho địa giới, thuỷ đại trở về trả lại cho thuỷ giới, hoả đại trở về trả lại cho hoả giới, phong đại trở về trả lại cho phong giới, các căn nhập vào hư không… chỉ có người ngu mới tán dương sự bố thí, lời nói của chúng trống không, giả dối, khi chúng chấp thuyết có sự sống. Kẻ ngu cũng như người hiền, sau khi thân hoại mạng chung sẽ đoạn diệt, tiêu thất, không còn tồn tại sau khi chết”2 .

Một quan điểm sống và hưởng thụ như thế không những không đem lại hạnh phúc mà còn gây ra những nguy hiểm cho bản thânxã hội. Tất nhiên lối sống này là sự sa đoạ, không đạo đức, không luân hồi, nên chỉ hưởng thụ mọi thứ và có thể làm mọi việc trong đời này mà không sợ nghiệp quảđời sau vì khi chết là kết thúc.

Lối sống khắc khổ là gì? Trong Tiểu kinh Khổ uẩn (Cūladukkhakkhanda Sutta) Đức Phật đã phê phán quan điểm sai trái của Nigantha Nataputra là một ẩn sĩ khổ hạnh ngoại đạo, khi ông này dạy các đệ tử của mình như sau:

“Này các Nigantha, nếu xưa kia các ngươi có làm ác nghiệp, hãy làm cho ác nghiệp tiêu mòn bằng khổ hạnh khốc liệt này. Sự không làm ác liệt trong tương lai chính do sự hộ trì về thân, sự hộ trì về lời nói, sự hộ trì về ý ngay trong hiện tại, ở tại nơi đây. Như vậy, chính nhờ sự thiêu đốt, sự chấm dứt các nghiệp quá khứ, sự không làm các nghiệp mới, mà không có sự tiếp tục trong tương lai. Do sự không tiếp tục trong tương lai, các nghiệp được diệt trừ, do nghiệp được diệt trừ, khổ được diệt trừ; do khổ được diệt trừ, cảm thọ được diệt trừ; do cảm thọ được diệt trừ, tất cả khổ đau sẽ được tiêu mòn”3 .

Theo đó, một người muốn tiêu diệt ác nghiệp trong quá khứ bằng cách thực hành khổ hạnh khiến cơ thể ngày càng đau khổ thì ác nghiệp sẽ tiêu trừ; và sự đoạn diệt ác nghiệp sẽ làm cho cơ thể thanh tịnh và đưa đến giải thoát. Quan điểm chấm dứt nghiệp này hoàn toàn khác với quan điểm chuyển hóa nghiệp của Phật giáo. Trong ba nghiệp, tâm là quan trọng nhất, thân làm ác, miệng nói những lời ác đều xuất phát từ tâm mà ra. Do đó, việc chuyển đổi ác tâm sang thiện tâm hoặc từ vô minh sang trí tuệ rất quan trọng.

Trong Phật giáo, sự thực hành không phải là thực hành khổ hạnh, mà phải cần những điều kiện vật chất đủ để nuôi dưỡng thân thể khỏe mạnh để đảm bảo đời sống tu hành. Điều đó cũng có nghĩa là sống thiểu dục tri túc, luôn hài lòng và biết đủ với những gì mình đang sở hữu. Đó là một cách hiệu quả để chúng ta vượt sự cám dỗ của những đam mêtham dục hay trầm mình trong con đường ép xác đau khổ. Vì vậy, hưởng thụ dục lạc là một cực đoankhổ hạnh cũng là một cực đoan. Cả hai lối sống này đều không mang lại trạng thái bình yên của cơ thể và tâm trí. Do đó, việc từ bỏ hai thái cực này là ý nghĩa của Trung đạo đã được Đức Phật giảng dạy thông qua con đường Bát chánh đạo gồm có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệmchánh định.

Trung đạotừ bỏ hai cực đoan: chấp cóchấp không

Trước khi xuất hiện khái niệm chấp cóchấp không thì những vấn đề siêu hình đã được ngoại đạo Vacchagotta chất vấn Đức Phật trong kinh dạy Vacchagotta về lửa.

- Thế giới này là thường hoặc vô thường, hoặc cả hai, hoặc không.

- Thế giới này hữu biên hoặc vô biên, hoặc cả hai, hoặc không.

 - Sinh mạng và thân thể là một hoặc khác.

- Như Laitồn tại sau khi chết, hoặc không tồn tại sau khi chết, hoặc cả hai, hoặc không4 .

Đây là những vấn đề được các nhà triết học Ấn Độ đương thời quan tâm, những người muốn Đức Phật làm rõ quan điểm của Ngài. Trên thực tế, Đức Phật luôn giữ im lặng bởi vì những câu hỏi này hoàn toàn dựa trên những lý do trừu tượng và huyền bí. Nếu bám vào những câu hỏi đó bằng những lập luận thuần túy sẽ rơi vào cái bẫy của sự hiểu biết, công thức và tính đối ngẫu thông thường, điều này sẽ dẫn đến cuộc tranh luận bất tận xoay quanh những vấn đề siêu thực, dẫn con người ta đến sự ảo tưởng.

Trong Tương ưng bộ, thiên Nhân duyên, Đức Phật đã nói với Kaccānagotta rằng:

“Này Kaccāyana, thế giới này phần lớn y chỉ vào hai cực đoan này: có và không có. Này Kaccāyana, ai với chánh trí huệ thấy như chơn thế giới tập khởi, vị ấy không chấp nhận thế giới này là không có. Này Kaccāyana, ai với chánh trí tuệ thấy như chơn thế giới đoạn điệt, vị ấy không chấp nhận thế giới là có”5 .

Một số triết gia có những suy tư siêu hình, muốn tìm hiểu bản chất của thế giới này là gì? Làm thế nào nó tồn tại? Nó tồn tại vĩnh cửu hay đoạn diệt? Cho rằng thế giớivĩnh cửu là một thiên kiến; cho rằng thế giớiđoạn diệt cũng là một thiên kiến khác. Hai quan điểm này thường mâu thuẫnđối kháng lẫn nhau. Đối với hai quan điểm này, Đức Phật đã không chấp nhận: “Tất cả là có, này Kaccāyana, là một cực đoan. Tất cả là không có, là cực đoan thứ hai. Xa lìa hai cực đoan ấy, này Kaccāyana, Như Lai thuyết pháp theo trung đạo”6 .

Thế giới này hay mỗi hiện hữu vốn dĩ tồn tại với trạng thái vô thường, biến đổi không ngừng, bởi vì chúng đều do duyên hòa hợp, nương tựa lẫn nhau để tạo thành. Nếu mỗi phần (bất cứ pháp nào) trong thế giớivô thường, thì thế giới to lớn không thể không thay đổi. Nếu thế giới đang thay đổi, thì không có thứ gì nhất định được gọi có hoặc gọi không.

Tất cả các pháp vốn dĩ không có tự tánh, chúng tồn tại phụ thuộc vào duyên sanh. Nếu chúng ta nghĩ rằng một vật nào đó thật có, thì đó là một quan điểm cực đoan. Ngược lại, chúng ta thấy một vật nào không thật có, thì đó cũng là một cực đoan khác. Rời khỏi hai thái cực có và không được gọi là Trung đạo.

Trung đạo của Long Thọ (Nāgārjuna)

Trước khi giải thích ý nghĩa của Trung đạo của Long Thọ, cần lưu ý giai đoạn của Phật giáo Đại thừa.Theo lịch sử của Phật giáo Ấn Độ, tư tưởng Prajñā (trí tuệ) của Phật giáo Đại thừa xuất hiện sau thời kỳ của Phật giáo Bộ phái. Đại thừa phát triển tư tưởng tánh Không (śūnyatā) và phê phán tư tưởng của các trường phái Phật giáo và phi Phật giáo. Vào thời điểm đó, các bộ phái chia rẽ vì mỗi bộ phái đều bảo thủ quan điểm của họ, không chấp nhận học thuyết của bộ phái khác. Tiểu thừa (Hīnayāna) chú trọng vào sự sinh và diệt, Bàla-môn giáo (Brāhmaṇa) có khuynh hướng trường tồn, Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivāda) chủ trương tư tưởng ngã là không và pháp là thật, Tỳ-bà-sa bộ (Vaibhāsika) và Kinh lượng bộ (Sautrāntika) chủ trương thuyết duy thực, Du-già tông (Yogācāra) cho rằng vạn vật đều do thức sinh ra… Long Thọ gọi những chủ trương đó là những lập luận vô nghĩa (prapañca) chỉ bị xóa bỏ bằng Bát bất Trung đạo.

Vì vậy, học thuyết về Trung đạo trong thời kỳ Đại thừa được trình bày bởi Long Thọ trong Trung quán luận (Mūlamadhyamaka-kārikā) đã tách khỏi khái niệm Trung đạo của Phật giáo sơ khai.

Trung đạo là lý Duyên khởi (prattyasamutpāsa) tánh Không (śūnyatā)

Long Thọ đã dựa vàoduyên sanh để thiết lập con đường Trung đạo. Theo đó, không có gì là tuyệt đối, mọi thứ đều tương đối, tất cả các pháp đều phụ thuộc lẫn nhau để hình thành và tồn tại, không có một sự vật nào độc lập trong quá trình thành, trụ, hoại, không. Nói cách khác, vì các pháp đều duyên sanh, cho nên tánh Khôngbản chất của các pháp.

“Chúng nhân duyên sanh pháp
Ngã thuyết tức thị không Diệc vi thị giả danh

Diệc thị trung đạo nghĩa”. (Pháp do các duyên sanh Ta nói tức là không Cũng chỉ là giả danh Cũng là nghĩa trung đạo). (Kệ 18, phẩm 24: Quán về Tứ đế, Trung luận, Thích Thiện Hạnh dịch)

Duyên sanhtánh Không không phải là khái niệm mà là bản chất của mọi sự hiện hữu, y cứ duyên sanhtánh Không để nhìn thấy các pháp đều không thật, chúng chỉ là giả danh. Đây là ý nghĩa của trung đạo.

Bát bất Trung đạo Long Thọ nắm bắt ý nghĩa sâu xa của lý Duyên sanh để hiển thị tám sự phủ định bao gồm các bốn cặp trái ngược:

“Bất sanh diệc bất diệt
Bất thường diệc bất đoạn
Bất nhất diệc bất nhị
Bất lai diệc bất xuất
”. (Chẳng sanh cũng chẳng diệt Chẳng thường cũng chẳng đoạn Chẳng một cũng chẳng khác Chẳng đến cũng chẳng đi). (Kệ 1, Phẩm 1: Quán Về Nhân Duyên, Trung luận, Thích Thiện Hạnh dịch)

Trong tám sự phủ định, tất cả các đặc tính của mỗi hiện hữu đều bị phủ nhận, không có đặc tính nào là cố hữu.
+ Chẳng sanh cũng chẳng diệt phá vỡ quan điểm sanh và diệt.
+ Chẳng thường cũng chẳng đoạn phá vỡ quan điểm thường và đoạn.
+ Chẳng một cũng chẳng khác phá vỡ quan điểm đồng nhất và khác biệt.
+ Chẳng đến cũng chẳng đi phá vỡ quan điểm đến và đi.

Thật ra, tám sự phủ định khôngmục đích đặc biệt nào, mà chỉ để phá vỡ sự bảo thủ của các trường phái. Thông qua tám sự phủ định những tư tưởng, quan điểm, định kiến không thể đưa con người đến với sự thật. Cho nên, con đường trung đạo chính là không cố chấp, không bám víu, không bảo thủ vào bất kỳ học thuyết, triết lý, chủ trương nào, vượt qua mọi khái niệm mới có thể tiến gần đến chân lý.

Trung đạo là một hệ tư tưởng rất quan trọng trong Phật giáo. Khi nói đến việc xa lánh hai cực đoan: hưởng thụ dục lạckhổ hạnh, một số người kết luận nhanh chóng rằng nền tảng của giáo lý của Đức Phật là một hình thức tương đối chỉ để cân bằng đời sống hiện tại. Nhưng thật ra, Trung đạo không phải chỉ là lối sống mà còn là pháp thực hành để đạt đến giải thoát.

Ngài Long Thọ đã kế thừa và phát triển Trung đạo dựa vàoDuyên khởi, nổi bậtBát bất Trung đạo với mục đích phê phán các chủ trương của các giáo phái nhằm xây dựng lại một nhận thức đúng về thực tại. Triết lý Trung đạo của Long Thọ không chỉ phá vỡ tất cả các mô hình khái niệm, ngôn luận vô nghĩa, nhận thức sai lầm, quan niệm bảo thủ mà còn giúp mọi người hiểu rõ bản chất của các pháp, đạt được tinh thần vô chấp.

Chú thích:
1. Kinh Vô tránh Phân biệt, kinh số 139 thuộc Trung bộ kinh, HT.Thích Minh Châu dịch.

2. Kinh Sa-môn quả (Samaññaphala Sutta), kinh số 2 thuộc Trường bộ kinh, HT.Thích Minh Châu dịch.
3. Tiểu kinh Khổ uẩn, kinh số 14 thuộc Trung bộ kinh, HT.Thích Minh Châu dịch.
4. Kinh Dạy Vacchagotta về lửa (Aggivacchagotta Sutta), kinh số 72 thuộc Trung bộ kinh, HT.Thích Minh Châu dịch. 5&6. Tương ưng Nhân duyên, tập II, phẩm Đồ ăn, Phần XV. Kaccānagotta thuộc Tương ưng bộ kinh, HT.Thích Minh Châu dịch.

Đức Ân | Văn Hóa Phật Giáo Số 325 ngày 15-7-2019 |
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8780)
Sinh thuận, tử an là một phước báo lớn của con người. Một khi chưa biết nghiệp duyên của mình sẽ chết bình an hay bất an thì hãy cố gắng tu tập các thiện pháp.
(Xem: 8475)
Bản Chất của Hạnh Phúc được trích từ tác phẩm Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc: Cẩm Nang cho Đời Sống, một quyển sách căn cứ trên sự mở rộng những đối thoại giửa Đức Đạt Lai Lạt MaBác sĩ Howard C. Cutter, một nhà tâm lý trị liệu phương Tây.
(Xem: 8014)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7758)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6962)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13833)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7560)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9325)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7855)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7796)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7358)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7741)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7475)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8681)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11088)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15460)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19235)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14926)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8845)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8843)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14682)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15295)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8537)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 10993)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11338)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8721)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9090)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19792)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24709)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8829)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9148)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10817)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9023)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7929)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8815)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8309)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7325)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11144)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7399)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8297)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17690)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44229)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45506)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45081)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10643)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8574)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7579)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7599)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7390)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12134)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7953)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8442)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9196)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8117)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8919)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 8034)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8194)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8698)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16358)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7151)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant