Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tổng Quan Về Định Học

03 Tháng Mười Hai 201907:43(Xem: 4392)
Tổng Quan Về Định Học

Tổng Quan Về Định Học 

Thích Trung Định

 
Cầu An

Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ . Nằm ở chi phần thứ hai, định học là kết quả do thực hành giới học đem lại và là nhân của tuệ học. Nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ . Trên con đường thực tập tâm linh theo Phật giáo, nếu thiếu chi phần này thì kết quả thực tập sẽ không thà nh tựu trọn vẹn. Bở i mỗ i chi phầ n trong đó sẽ hỗ trợ cho nhau, chú ng nằ m trong mộ t chỉ nh thể thố ng nhấ t, bấ t phân; bao hà m trọ n vẹ n đạ o lộ đi đế n giá c ngộ giả i thoá t. Do vậ y, hà nh giả tu họ c sẽ phả i thự c hà nh trọ n vẹ n về giớ i họ c, về đị nh họ c và về tuệ họ c. Trong kinh Đại Bát Niết-bàn, Đức Phật nói rõ về mố i quan hệ nà y: “Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu”1 .

Ý nghĩa thuật ngữ

Thuật ngữ samādhi được dịch qua tiếng Anh là concentration (thiền định), là yếu tố quan trọng nhất về kỹ thuật thực hành. Nó có gốc saṃ-ā-dhā nghĩa là đặt lại với nhau, tập trung tâm ý, tức đề cập đến một trạng thái của sự nhất tâm hay chuyên chú tâm. Trong một ý nghĩa kỹ thuật, thiền định bao gồm cả trạng thái của tâm và phương pháp thực hành để tạo nên trạng thái đó2 . Tất cả những vấn đề này mặc dù khác nhau về hình thứcsự thể hiện, nhưng nó cũng có trong một ý nghĩa của thiền định đó là sự nhất tâm. Trong bản sớ giải bộ Pháp tụ (Dhammasangani) có tên là Atthasālinī Ngài Phật Âm (Buddhaghosa Thera) định nghĩa về thiền như sau: “Tâm trí tập trung lại một chỗ, gọi là nhất tâm, do đó gọi là thiền định”3 . Với nguyên nghĩa của từ saṃ-ā-dhā là “đưa hoặc đặt lại với nhau”, thuật ngữ này được dùng để chỉ một trạng thái tập trung tinh thần, thường là kết quả của một số kỹ thuật hoặc hành thiền cụ thể.

Từ điển Pāli-English Dictionary của T.W. Rhys Davids và William Stede cũng khẳng định, thuật ngữ Samādhi có gốc là ‘saṃ+ā+dhā’, nghĩa là tập trung, gom lại, thu thập lại, tập trung tâm ý, và thiền định; đồng thời với việc thực hành chánh mạng, là một điều kiện cần thiết để đạt được trí tuệ cao hơn và đạt được giải thoát4 .

Trong Kinh tạng, samādhi được định nghĩa là sự nhất tâm (citta ekagata), định nghĩa này hoàn toàn phù hợp với tính nghiêm ngặt của thuật ngữ tâm lý trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Vi Diệu Pháp xem nhất tâm như một tâm sở riêng biệt có mặt trong mọi tâm. Nó là một biến hành tâm sở với nhiệm vụ hợp nhất tâm trên đối tượng của nó, bảo đảm rằng mỗi tâm chỉ nắm bắt một đối tượng duy nhất mà thôi. Khi nhất tâm vượt qua sự ổn định căn bản của tâm trên một đối tượng để đem lại cho tâm một mức độ kiên cố và không tán loạn nào đó thì được xếp dưới danh mục samādhi (định). Có lẽ vì vậy mà bộ Pháp tụ (Dhammasangani) đồng hóa các loại nhất tâm này với một chuỗi các từ đồng nghĩa bao gồm tịnh chỉ (samatha), định căn (samādhindriya), định lực (samādhibala). Từ quan niệm tâm lý nghiêm ngặt này, samādhi (định) có thể hiện diện trong các tâm bất thiện cũng như thiện và vô ký. Trong hình thức bất thiện nó được gọi là “tà định” (micchā-samādhi), trong hình thức thiện gọi là “chánh định” (sammāsamādhi).

Danh từ samādhi tùy theo ngữ cảnh để dịch. Nếu được dùng trong nghĩa chánh định (samma samadhi), một trong tám chi phần của Bát Chánh đạo, thì chữ nầy có liên quan đến các tầng thiền-na, và thường được xem như cùng nghĩa với samatha-bhāvana, dịch là Thiền an chỉ, hay Thiền chỉ (samatha). Nếu được dùng trong nghĩa tam vô lậu học Giới, Định, Tuệ, thì nó có nghĩa là bao gồm ba chi: Chánh tinh tấn (Right eff ort), Chánh niệm (Right mindfulness), Chánh định (Right concentration) của Bát Chánh đạo.

Thuật ngữ samādhi được phiên âm phổ biến theo tiếng Trung Quốc bao gồm những cụm từ như Tammuội, Tam-ma-địa hoặc Tam-ma-đề, cũng như các bản dịch của từ ngữ theo nghĩa đen như định. Bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập thường sử dụng Tam-muội trong khi bản dịch của ngài Huyền Trangxu hướng sử dụng từ Định.

Bên cạnh thuật ngữ thường dùng samādhi, trong từ vựng kỹ thuật về thiền cũng còn sử dụng hai thuật ngữ phổ biến đó là Jhāna (theo Skt là dhyāna) và Bhavana. Luận sư Phật âm đã truy nguyên từ Pāḷi Jhāna (Skt. Dhyāna) đến hai hình thức có gốc động từ. Một là động từ jhāyati với nghĩa tư duy hay tĩnh lự, có nguồn gốc chính xác theo từ nguyên. Ngoài ra, ngài còn đưa thêm một từ phái sanh nữa của jhāna dù hơi có vẻ khôi hài, song với ý định làm sáng tỏ nhiệm vụ của nó hơn là giới thiệu gốc động từ. Từ phái sinh này được theo dấu từ chữ jhāna đến động từ jhāpeti với nghĩa thiêu đốt, lý do là vì nó thiêu đốt các pháp đối nghịch, nên gọi làjhāna. Lời giải thích thứ hai này hàm ý rằng “jhāna thiêu đốt hay thiêu hủy các phiền não”, yếu tố ngăn cản sự phát triển định và tuệ trong tâm5 . Trong ý nghĩa này, nhà bình luận về thiền-na nổi tiếng Ācariya Mahānāma viết rằng: “Những ai đã an trụ vào các tầng thiền na, thì sẽ đốt cháy hết các đam mê dục vọng. Do đó, vị ấy hoàn toàn đoạn trừ hết thảy chúng trong tâm, và đạt được các trạng thái thiền-na, nên, thiền-na được hiểu theo nghĩa là đốt cháy”.

Theo Mahāthera Paravahera Vajirañāṇa, từ jhāna có ý nghĩa rộng hơn từ samādhi. Nó ngụ ý chủ yếu là chiêm nghiệm (contemplation) hay thiền định (meditation), thuật ngữ này sử dụng trong Phật học không chỉ mang ý nghĩa phát triển tinh thần rộng lớn mà còn là quá trình chuyển đổi các trạng thái ý thức thấp hơn sang các trạng thái cao hơn, từ các tầng thiền Sắc giới đến Vô sắc giới, rồi từ Vô sở hữu xứ đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và cuối cùng đạt đến đỉnh cao trong sự tiến bộ đời sống tâm linh. Theo cách sử dụng có tính kinh điển mang tính luận giải thì từ jhāna có hai ý nghĩa có thể. Một mặt, nó có nghĩa là quán chiếu đến một đối tượng nhất định, hoặc quán sát một cách chặt chẽ về đặc điểm của các sự vật hiện tượng. Mặt khác, nó có nghĩa là loại bỏ những triền cái hoặc những tâm ý bất thiện làm chướng ngại thánh đạo. Trong cách sử dụng thứ hai, từ jhāna được giải thích bởi các nhà bình luận Phật giáo với động từ jhāpeti, (đốt). Tuy nhiên, ngày nay, từ jhāna được chấp nhận rộng rãi hơn theo nghĩa cũ, nghĩa là thiền định, và cả thuật ngữ Pāli là jhāna tương đương của tiếng Phạn, dhyāna, được sử dụng để biểu thị trong hệ thống thiền định Phật giáo6 .

Từ jhāna có liên quan chặt chẽ với từ samādhi với nghĩa thông thường là tập trung tâm ý. Samādhi xuất phát từ gốc nguyên thủy sam +ā +dhā, nghĩa là thu thập hay tập hợp lại, do đó đề xuất tập trung hay thống nhất tâm. Do đó Samādhi được miêu tả ngắn gọn như các trạng thái ly các dục và các bất thiện pháp, tâm ý trở nên lành mạnh7 .

Thuật ngữ tiếng Phạn thường hay nhắc đến nhất khi nói đến thiền là dhyana, thuật ngữ này được người Trung Quốc thời sơ khai phiên âm là thiền-na và người Nhật gọi là thiền Zen. Theo Matsumoto, các thuật ngữ dhyana và samahita (nhập định hay nhập tam-ma-địa) đã xuất hiện trong các văn bản thuộc văn hệ Upanishads trước khi Phật giáo sử dụng. Đây là trạng thái thiền định khi Đức Phật còn là Thái tử, trong một buổi lễ hạ điền cùng vua cha và các thân tộc dòng họ Thích-ca, Thái tử Tất-đạt-đa ngồi dưới gốc cây Hồng táo, tâm bắt đầu ly dục, ly các bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Sau này dưới cây Bồđề tại Bodhgaya, Đức Phật nhớ lại trạng thái thiền này và thực hiện cho đến khi đạt được giác ngộ.

Trong ý nghĩa hẹp, dhyana được sử dụng thường xuyên để đề cập cụ thể đến các cấp độ khác nhau từ Sơ thiền đến Tứ thiềnTứ không định. Một bậc thiền có một trạng thái tâm tương ứng. Trong một ý nghĩa rộng lớn hơn này, thiền được nói là bao gồm cả thiền chỉ (samatha) và thiền quán (vipassana), tức pháp thiền làm an chỉ tâm, chuyên chủ tâm và pháp thiền kia là thực tập quán chiếu sâu vào hoặc nhận định về bản chất của sự tồn tại8 .

Thuật ngữ bhāvana cũng được dịch là thiền định. Danh từ này có nguồn gốc từ ngữ căn bhii. Có thể dịch chữ bhāvana là tu thiền, tu tâm, luyện tâm, lọc tâm, dưỡng tâm. Theo ngài Phật Âm, nó xuất phát từ ngữ căn bhā, có nghĩa là được hay để trở thành nhằm hỗ trợ yêu cầu của mình mà bhāvana có thể được hiểu như là một sự tiến triển, phát triển tâm linh, sự tu tâm, luyện tâm.

Trong Phật giáo, bhavana có thể nói đến bất kỳ hình thức tu tập, thực tập dhyani. Gần đây, ngài Walpola Rahula đã lập luận rằng thiền Phật giáo phải được hiểu theo nghĩa bhavana rộng hơn là dhyana. Theo ngài, thiền định là một danh từ chưa lột tả được nguyên ngữ bhāvanā, có nghĩa sự đào luyện tâm linh. Bhāvanā trong Phật giáo nói đúng ra là một sự đào luyện tâm linh trong ý nghĩa toàn vẹn nhất về mặt ngữ nghĩa của danh từ. Nó nhằm mục đích tẩy sạch tâm tưởng hết những ô nhiễm, những thứ làm tâm dao động như ý tưởng về dâm dục, sân hận, ác độc, biếng nhác, phiền não, bất an, hoài nghi; và đào luyện những đức tính như tập trung, chú ý, thông minh, ý chí, nghị lực, khả năng phân tích, niềm tin, hoan hỷ, an tịnh, để cuối cùng đưa đến trí tuệ cao cả thấy rõ thật chất của mọi sự vật, và thật chứng chân lý tối hậu, Niết-bàn.

Nghiên cứu từ điển Phật học Trung Hoa cho thấy thiền là phiên âm của dhyana, trong khi định là một giải thích của samādhi. Thiền là một yếu tố trong định, hoặc samādhi, trong đó bao gồm cả nền tảng của thiền định là tập trung, trừu tượng, đạt đến mức cuối cùngvượt qua cảm xúc hay suy nghĩ; do đó mà hai từ thiền định được sử dụng chặt chẽ với nhau. Tiến sĩ Muller, một học giả Phật giáo Bắc tông, tác giả quyển Tự điển Thuật ngữ Phật học Đông Á (Dictionary of East Asian Buddhist Terms), cũng cùng quan điểm như vậy, Thiền Định là tiếng ghép đôi, từ việc phiên âm chữ Phạn là Thiền và ý nghĩa theo chữ Hán là Định, có nghĩa là quay nhìn vào bên trong, với trạng thái tĩnh lặng.

Như vậy, chúng ta nên dùng trong ý nghĩa trọn vẹn nhất đó là thiền định, nó bao gồm cả Samādhi và dhyana và bhavana để nói đến thiền định Phật giáo; như vậy mới bao hàm toàn bộ ý nghĩa của Thiền định được mô tả trong Kinh tạ ng.

Ý nghĩa về thiền định

Tóm lại, thiền định có nghĩa là tư duy hay tĩnh-lự, là chuyên chú tâm vào một đối tượng duy nhất để đạt được trạng thái nhất tâm. Thiền định được chỉ định trong giai đoạn thứ hai của Con đường Thanh tịnh, bao gồm nghĩa đennghĩa bóng. Nghĩa đen, nó có nghĩa là cố định vững chắc, do đó chúng ta có thể định nghĩa theo nghĩa hẹp nhất và độc nhất của nó về cơ bản là tập trung tâm ý lành mạnh vào một đối tượng duy nhất. Và theo nghĩa rộng nhất của nó theo truyền thống bao gồm: chánh niệm; sự mãn nguyện; sự giải thoát khỏi những triền cái; bài tập sơ bộ cho sự phát triển của nhất tâm; sự chuyên chú, nhất tâm; các trạng thái thiền từ Sơ thiền đến Tứ thiền, đến Tứ không định.

Bộ Pháp tụ thuộc tạng A-tỳ-đạt-ma định nghĩa sự nhất tâm như sau: “Tính ổn định, tính vững chắc, và sự kiên định của trí tuệ, sự vắng mặt của tâm tán loạn và phân tâm, tâm chuyên chú, sự an tịnh, định lựcchú tâm, và cuối cùngchánh định”.

Thanh tịnh đạo luận định nghĩa: “Định với nghĩa là tập trung. Tập trung là gì? Đó là sự xoay quanh của tâm và tâm sở một cách đều đặn, chánh đáng vào một đối tượng duy nhất. Bởi vậy, đấy là trạng thái nhờ đó tâm và tâm sở ở trong tình trạng quân bình, chánh đáng, và đặt hết vào một đối tượng duy nhất, không phân tán hay xao lãng. Đặc tính của Định là không phân tán. Bản chất hay nhiệm vụ của nó là loại trừ phân tán. Tướng của nó là không tán loạn, nhân gần của nó là lạc, do câu “nhờ lạc, tâm vị ấy được định”9 .

Phật giáo Nguyên thủy định nghĩa thiền định hay thiền chỉmục đích chế ngự năm chướng ngại của định gọi là năm triền cái và làm cho tâm an trú, thuộc ba chi phần định trong Bát Thánh đạo tương ứng với ba mức độ định khác nhau:

a) Chánh tinh tấn: An trú nhờ cố gắng giữ nhất tâm trên đối tượng sơ tướng10 và thô tướng11. An trú này gọi là chuẩn bị định.

b) Chánh niệm: An trú nhờ duy trì nhất tâm trên đối tượng quang tướng12. An trú này gọi là cận hành định hay tịnh thuộc dục giới định.

c) Chánh định: An trú nhờ nhất tâm bất động trên đối tượng quang tướng. An trú này được gọi là an chỉ định hay định sắc giớiđịnh vô sắc giới.

Kinh A-ma-trú (bản kinh số 3, Ambaṭṭha sutta, thuộc Trường bộ) giới thiệu các vấn đề tương ứngGiới Định và Tuệ; theo đó Định sẽ bao gồm (a) Phòng hộ sáu giác quan, (b) Chánh niệm, (c) sự thỏa mãn, (d) sự giải phóng khỏi năm triền cái, (e) bốn tầng thiền.

Thành tựu bốn tầng thiền được Đức Phật gọi đó là chánh định: “Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh định? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh, có tầm có tứ. Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sinh, không tầm không tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả, niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Đây gọi là chánh định”.

Pháp bảo đàn kinh định nghĩa Tọa Thiền là : “Bên ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là tọa, bên trong thấy tự tánh chẳng động gọi là thiền. Ngoài lìa tướng tức Thiền, trong chẳng loạn tức Định, ngoại Thiền nội Định gọi là thiền định. Ngoài lìa tướng nghĩa là khi thấy tướng nhưng không dính mắc vào tướng, tức là khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần tâm không dính mắc, hay rong ruổi chạy theo tìm kiếm. Bên trong tự tánh chẳng động, tức nội tâm an trú, vắng bặt các tạp niệm, do vậy tâm chuyên nhất, đó là định”.

Ngài Khương Tăng Hội trong bài tựa kinh An ban thủ ý định nghĩa Thiền là loại trừ và đốt cháy. Loại trừ và đốt cháy ở đây là loại trừ những cấu uế trong tâm, những phiền não, tập khí và nội kết trong tâm. Thiền là làm cho tâm ngay thẳng lại, làm cho ý chuyên nhất lại. Tập hợp tất cả những điều lành. Dùng những điều lành ấy để loại trừ những uế ác còn dính mắc trong tâm. Uế ác đó là năm sự ngăn che, gọi là Ngũ triền cái, đó là Tham dục, Sân hận, Thùy miên, Trạo hốiNghi ngờ.

Như vậy, có thể nói định học là mộ t phạ m trù rộ ng lớ n trên con đườ ng thự c tậ p tâm linh trong Phậ t giá o. Thiề n đị nh đượ c xem là trá i tim củ a Phậ t giá o, vì nế u không có thự c tậ p thiề n đị nh thì sẽ không đạ t đượ c mụ c tiêu cuố i cù ng đó là trí tuệ vô lậ u giả i thoá t. Ngà y nay, khi Phậ t giá o phá t triể n rộ ng lớ n, cá c trườ ng phá i thiề n đượ c phá t triể n. Thiề n chỉ , thiề n quá n, thiề n Tứ niệ m xứ , thiề n quá n niệ m hơi thở và thiề n từ bi đượ c á p dụ ng thự c tậ p rộ ng rã i. Trong đó , thiề n chá nh niệ m đã trở thà nh mộ t dò ng thiề n thiế t yế u trong xu hướ ng thờ i hiệ n đạ i. Thiề n đị nh giú p giả i quyết nhiều vấ n đề cấ p thiế t như: giả m stress, buông thư, an trú và tị nh lạ c, giú p tá i cấ u trú c và thiết lập cơ chế tâm, mang lại an lạc giải thoát trong đời sống.

 

Ghi chú :
1. Kinh Đại Bát Niết-bàn; Trường bộ kinh; Hòa thượng Thích Minh Châu dịch.
2&3. Mahāthera Paravahera Vajirañāṇa; Buddhist Meditation in Theory and Practice; Colombo; MD. Gunasena & Co. Ltd., 1962.
4. T.W. Rhys Davids & W. Stede (ed.), Pali-English Dictionary; Munshhiram Manoharlal; New Delhi; 2001.
5. Henepola Gunaratana; A Critical Analysis of the Jhanas in Theravāda Buddhist Meditation; The American University; Washington; 1980.
6. Original author, Paravahera Vajirañāza Mahā Thera; new edition revised and edited by Allan R. Bomhard; Buddhist Meditation In Theory and Practice, A General Exposition According to the Pāli Canon of the Theravādin School; Charleston Buddhist Fellowship; 2010 (2554).
7. Harcharn Singh Sobti; Vipassanā The Buddhist way; EBL Delhi; 2003.
8. Peter N. Gregory; Traditions of Meditation in Chinese Buddhism; University of Hawaii Press; 1986.
9. Thích nữ Trí Hải (dịch) Thanh tịnh đạo luận; chùa Pháp Vân ấn hành.
10. Sơ tướng: là hiện vật được tạo ra hay có sẵn trong thiên nhiên được hành giả dùng làm đối tượng thiền định. Ví dụ như một hình tròn màu xanh (được tạo ra) hay ngọn lá xanh (thiên nhiên) mà hành giả dùng để tập chú với mục đích định tâm.
11. Thô tướng: sau khi tập chú tâm với tưởng đủ mạnh để sao chép sơ tướng thành hình ảnh tương tự bên trong gọi là thô tướng hay tợ tướng, bấy giờ hành giả tạm thời bỏ sơ tướng bên ngoài để tập chú vào thô tướng bên trong.
12. Quang tướng: nếu chú tâm trên thô tướng đúng mức tướng này sẽ phát ra ánh sáng nên được gọi là quang tướng. Quang tướng là sắc do tưởng sinh, vì vậy, thiền lấy sắc tưởng này làm đối tượng để đạt được an chỉ định được gọi là thiền sắc giới hay thiền hữu sắc.

Thích Trung Định
Văn Hóa Phật Giáo số 332 ngày 1-11-2019
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30397)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30663)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21018)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20202)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19437)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24393)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30659)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15689)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27788)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19767)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15579)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23255)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23569)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17531)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15694)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21876)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38005)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22175)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23255)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21352)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28420)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32550)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25181)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34686)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22945)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27723)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31307)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13599)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25185)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27836)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22092)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20733)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22215)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27138)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24150)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21899)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14714)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23155)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24029)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21108)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14201)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19942)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22506)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14075)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28050)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22821)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28207)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10988)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28513)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31576)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26177)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14957)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28047)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7443)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25360)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20701)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21131)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12238)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11914)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12806)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant