Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tổng Quan Về Định Học

03 Tháng Mười Hai 201907:43(Xem: 4413)
Tổng Quan Về Định Học

Tổng Quan Về Định Học 

Thích Trung Định

 
Cầu An

Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ . Nằm ở chi phần thứ hai, định học là kết quả do thực hành giới học đem lại và là nhân của tuệ học. Nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ . Trên con đường thực tập tâm linh theo Phật giáo, nếu thiếu chi phần này thì kết quả thực tập sẽ không thà nh tựu trọn vẹn. Bở i mỗ i chi phầ n trong đó sẽ hỗ trợ cho nhau, chú ng nằ m trong mộ t chỉ nh thể thố ng nhấ t, bấ t phân; bao hà m trọ n vẹ n đạ o lộ đi đế n giá c ngộ giả i thoá t. Do vậ y, hà nh giả tu họ c sẽ phả i thự c hà nh trọ n vẹ n về giớ i họ c, về đị nh họ c và về tuệ họ c. Trong kinh Đại Bát Niết-bàn, Đức Phật nói rõ về mố i quan hệ nà y: “Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu”1 .

Ý nghĩa thuật ngữ

Thuật ngữ samādhi được dịch qua tiếng Anh là concentration (thiền định), là yếu tố quan trọng nhất về kỹ thuật thực hành. Nó có gốc saṃ-ā-dhā nghĩa là đặt lại với nhau, tập trung tâm ý, tức đề cập đến một trạng thái của sự nhất tâm hay chuyên chú tâm. Trong một ý nghĩa kỹ thuật, thiền định bao gồm cả trạng thái của tâm và phương pháp thực hành để tạo nên trạng thái đó2 . Tất cả những vấn đề này mặc dù khác nhau về hình thứcsự thể hiện, nhưng nó cũng có trong một ý nghĩa của thiền định đó là sự nhất tâm. Trong bản sớ giải bộ Pháp tụ (Dhammasangani) có tên là Atthasālinī Ngài Phật Âm (Buddhaghosa Thera) định nghĩa về thiền như sau: “Tâm trí tập trung lại một chỗ, gọi là nhất tâm, do đó gọi là thiền định”3 . Với nguyên nghĩa của từ saṃ-ā-dhā là “đưa hoặc đặt lại với nhau”, thuật ngữ này được dùng để chỉ một trạng thái tập trung tinh thần, thường là kết quả của một số kỹ thuật hoặc hành thiền cụ thể.

Từ điển Pāli-English Dictionary của T.W. Rhys Davids và William Stede cũng khẳng định, thuật ngữ Samādhi có gốc là ‘saṃ+ā+dhā’, nghĩa là tập trung, gom lại, thu thập lại, tập trung tâm ý, và thiền định; đồng thời với việc thực hành chánh mạng, là một điều kiện cần thiết để đạt được trí tuệ cao hơn và đạt được giải thoát4 .

Trong Kinh tạng, samādhi được định nghĩa là sự nhất tâm (citta ekagata), định nghĩa này hoàn toàn phù hợp với tính nghiêm ngặt của thuật ngữ tâm lý trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Vi Diệu Pháp xem nhất tâm như một tâm sở riêng biệt có mặt trong mọi tâm. Nó là một biến hành tâm sở với nhiệm vụ hợp nhất tâm trên đối tượng của nó, bảo đảm rằng mỗi tâm chỉ nắm bắt một đối tượng duy nhất mà thôi. Khi nhất tâm vượt qua sự ổn định căn bản của tâm trên một đối tượng để đem lại cho tâm một mức độ kiên cố và không tán loạn nào đó thì được xếp dưới danh mục samādhi (định). Có lẽ vì vậy mà bộ Pháp tụ (Dhammasangani) đồng hóa các loại nhất tâm này với một chuỗi các từ đồng nghĩa bao gồm tịnh chỉ (samatha), định căn (samādhindriya), định lực (samādhibala). Từ quan niệm tâm lý nghiêm ngặt này, samādhi (định) có thể hiện diện trong các tâm bất thiện cũng như thiện và vô ký. Trong hình thức bất thiện nó được gọi là “tà định” (micchā-samādhi), trong hình thức thiện gọi là “chánh định” (sammāsamādhi).

Danh từ samādhi tùy theo ngữ cảnh để dịch. Nếu được dùng trong nghĩa chánh định (samma samadhi), một trong tám chi phần của Bát Chánh đạo, thì chữ nầy có liên quan đến các tầng thiền-na, và thường được xem như cùng nghĩa với samatha-bhāvana, dịch là Thiền an chỉ, hay Thiền chỉ (samatha). Nếu được dùng trong nghĩa tam vô lậu học Giới, Định, Tuệ, thì nó có nghĩa là bao gồm ba chi: Chánh tinh tấn (Right eff ort), Chánh niệm (Right mindfulness), Chánh định (Right concentration) của Bát Chánh đạo.

Thuật ngữ samādhi được phiên âm phổ biến theo tiếng Trung Quốc bao gồm những cụm từ như Tammuội, Tam-ma-địa hoặc Tam-ma-đề, cũng như các bản dịch của từ ngữ theo nghĩa đen như định. Bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập thường sử dụng Tam-muội trong khi bản dịch của ngài Huyền Trangxu hướng sử dụng từ Định.

Bên cạnh thuật ngữ thường dùng samādhi, trong từ vựng kỹ thuật về thiền cũng còn sử dụng hai thuật ngữ phổ biến đó là Jhāna (theo Skt là dhyāna) và Bhavana. Luận sư Phật âm đã truy nguyên từ Pāḷi Jhāna (Skt. Dhyāna) đến hai hình thức có gốc động từ. Một là động từ jhāyati với nghĩa tư duy hay tĩnh lự, có nguồn gốc chính xác theo từ nguyên. Ngoài ra, ngài còn đưa thêm một từ phái sanh nữa của jhāna dù hơi có vẻ khôi hài, song với ý định làm sáng tỏ nhiệm vụ của nó hơn là giới thiệu gốc động từ. Từ phái sinh này được theo dấu từ chữ jhāna đến động từ jhāpeti với nghĩa thiêu đốt, lý do là vì nó thiêu đốt các pháp đối nghịch, nên gọi làjhāna. Lời giải thích thứ hai này hàm ý rằng “jhāna thiêu đốt hay thiêu hủy các phiền não”, yếu tố ngăn cản sự phát triển định và tuệ trong tâm5 . Trong ý nghĩa này, nhà bình luận về thiền-na nổi tiếng Ācariya Mahānāma viết rằng: “Những ai đã an trụ vào các tầng thiền na, thì sẽ đốt cháy hết các đam mê dục vọng. Do đó, vị ấy hoàn toàn đoạn trừ hết thảy chúng trong tâm, và đạt được các trạng thái thiền-na, nên, thiền-na được hiểu theo nghĩa là đốt cháy”.

Theo Mahāthera Paravahera Vajirañāṇa, từ jhāna có ý nghĩa rộng hơn từ samādhi. Nó ngụ ý chủ yếu là chiêm nghiệm (contemplation) hay thiền định (meditation), thuật ngữ này sử dụng trong Phật học không chỉ mang ý nghĩa phát triển tinh thần rộng lớn mà còn là quá trình chuyển đổi các trạng thái ý thức thấp hơn sang các trạng thái cao hơn, từ các tầng thiền Sắc giới đến Vô sắc giới, rồi từ Vô sở hữu xứ đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và cuối cùng đạt đến đỉnh cao trong sự tiến bộ đời sống tâm linh. Theo cách sử dụng có tính kinh điển mang tính luận giải thì từ jhāna có hai ý nghĩa có thể. Một mặt, nó có nghĩa là quán chiếu đến một đối tượng nhất định, hoặc quán sát một cách chặt chẽ về đặc điểm của các sự vật hiện tượng. Mặt khác, nó có nghĩa là loại bỏ những triền cái hoặc những tâm ý bất thiện làm chướng ngại thánh đạo. Trong cách sử dụng thứ hai, từ jhāna được giải thích bởi các nhà bình luận Phật giáo với động từ jhāpeti, (đốt). Tuy nhiên, ngày nay, từ jhāna được chấp nhận rộng rãi hơn theo nghĩa cũ, nghĩa là thiền định, và cả thuật ngữ Pāli là jhāna tương đương của tiếng Phạn, dhyāna, được sử dụng để biểu thị trong hệ thống thiền định Phật giáo6 .

Từ jhāna có liên quan chặt chẽ với từ samādhi với nghĩa thông thường là tập trung tâm ý. Samādhi xuất phát từ gốc nguyên thủy sam +ā +dhā, nghĩa là thu thập hay tập hợp lại, do đó đề xuất tập trung hay thống nhất tâm. Do đó Samādhi được miêu tả ngắn gọn như các trạng thái ly các dục và các bất thiện pháp, tâm ý trở nên lành mạnh7 .

Thuật ngữ tiếng Phạn thường hay nhắc đến nhất khi nói đến thiền là dhyana, thuật ngữ này được người Trung Quốc thời sơ khai phiên âm là thiền-na và người Nhật gọi là thiền Zen. Theo Matsumoto, các thuật ngữ dhyana và samahita (nhập định hay nhập tam-ma-địa) đã xuất hiện trong các văn bản thuộc văn hệ Upanishads trước khi Phật giáo sử dụng. Đây là trạng thái thiền định khi Đức Phật còn là Thái tử, trong một buổi lễ hạ điền cùng vua cha và các thân tộc dòng họ Thích-ca, Thái tử Tất-đạt-đa ngồi dưới gốc cây Hồng táo, tâm bắt đầu ly dục, ly các bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Sau này dưới cây Bồđề tại Bodhgaya, Đức Phật nhớ lại trạng thái thiền này và thực hiện cho đến khi đạt được giác ngộ.

Trong ý nghĩa hẹp, dhyana được sử dụng thường xuyên để đề cập cụ thể đến các cấp độ khác nhau từ Sơ thiền đến Tứ thiềnTứ không định. Một bậc thiền có một trạng thái tâm tương ứng. Trong một ý nghĩa rộng lớn hơn này, thiền được nói là bao gồm cả thiền chỉ (samatha) và thiền quán (vipassana), tức pháp thiền làm an chỉ tâm, chuyên chủ tâm và pháp thiền kia là thực tập quán chiếu sâu vào hoặc nhận định về bản chất của sự tồn tại8 .

Thuật ngữ bhāvana cũng được dịch là thiền định. Danh từ này có nguồn gốc từ ngữ căn bhii. Có thể dịch chữ bhāvana là tu thiền, tu tâm, luyện tâm, lọc tâm, dưỡng tâm. Theo ngài Phật Âm, nó xuất phát từ ngữ căn bhā, có nghĩa là được hay để trở thành nhằm hỗ trợ yêu cầu của mình mà bhāvana có thể được hiểu như là một sự tiến triển, phát triển tâm linh, sự tu tâm, luyện tâm.

Trong Phật giáo, bhavana có thể nói đến bất kỳ hình thức tu tập, thực tập dhyani. Gần đây, ngài Walpola Rahula đã lập luận rằng thiền Phật giáo phải được hiểu theo nghĩa bhavana rộng hơn là dhyana. Theo ngài, thiền định là một danh từ chưa lột tả được nguyên ngữ bhāvanā, có nghĩa sự đào luyện tâm linh. Bhāvanā trong Phật giáo nói đúng ra là một sự đào luyện tâm linh trong ý nghĩa toàn vẹn nhất về mặt ngữ nghĩa của danh từ. Nó nhằm mục đích tẩy sạch tâm tưởng hết những ô nhiễm, những thứ làm tâm dao động như ý tưởng về dâm dục, sân hận, ác độc, biếng nhác, phiền não, bất an, hoài nghi; và đào luyện những đức tính như tập trung, chú ý, thông minh, ý chí, nghị lực, khả năng phân tích, niềm tin, hoan hỷ, an tịnh, để cuối cùng đưa đến trí tuệ cao cả thấy rõ thật chất của mọi sự vật, và thật chứng chân lý tối hậu, Niết-bàn.

Nghiên cứu từ điển Phật học Trung Hoa cho thấy thiền là phiên âm của dhyana, trong khi định là một giải thích của samādhi. Thiền là một yếu tố trong định, hoặc samādhi, trong đó bao gồm cả nền tảng của thiền định là tập trung, trừu tượng, đạt đến mức cuối cùngvượt qua cảm xúc hay suy nghĩ; do đó mà hai từ thiền định được sử dụng chặt chẽ với nhau. Tiến sĩ Muller, một học giả Phật giáo Bắc tông, tác giả quyển Tự điển Thuật ngữ Phật học Đông Á (Dictionary of East Asian Buddhist Terms), cũng cùng quan điểm như vậy, Thiền Định là tiếng ghép đôi, từ việc phiên âm chữ Phạn là Thiền và ý nghĩa theo chữ Hán là Định, có nghĩa là quay nhìn vào bên trong, với trạng thái tĩnh lặng.

Như vậy, chúng ta nên dùng trong ý nghĩa trọn vẹn nhất đó là thiền định, nó bao gồm cả Samādhi và dhyana và bhavana để nói đến thiền định Phật giáo; như vậy mới bao hàm toàn bộ ý nghĩa của Thiền định được mô tả trong Kinh tạ ng.

Ý nghĩa về thiền định

Tóm lại, thiền định có nghĩa là tư duy hay tĩnh-lự, là chuyên chú tâm vào một đối tượng duy nhất để đạt được trạng thái nhất tâm. Thiền định được chỉ định trong giai đoạn thứ hai của Con đường Thanh tịnh, bao gồm nghĩa đennghĩa bóng. Nghĩa đen, nó có nghĩa là cố định vững chắc, do đó chúng ta có thể định nghĩa theo nghĩa hẹp nhất và độc nhất của nó về cơ bản là tập trung tâm ý lành mạnh vào một đối tượng duy nhất. Và theo nghĩa rộng nhất của nó theo truyền thống bao gồm: chánh niệm; sự mãn nguyện; sự giải thoát khỏi những triền cái; bài tập sơ bộ cho sự phát triển của nhất tâm; sự chuyên chú, nhất tâm; các trạng thái thiền từ Sơ thiền đến Tứ thiền, đến Tứ không định.

Bộ Pháp tụ thuộc tạng A-tỳ-đạt-ma định nghĩa sự nhất tâm như sau: “Tính ổn định, tính vững chắc, và sự kiên định của trí tuệ, sự vắng mặt của tâm tán loạn và phân tâm, tâm chuyên chú, sự an tịnh, định lựcchú tâm, và cuối cùngchánh định”.

Thanh tịnh đạo luận định nghĩa: “Định với nghĩa là tập trung. Tập trung là gì? Đó là sự xoay quanh của tâm và tâm sở một cách đều đặn, chánh đáng vào một đối tượng duy nhất. Bởi vậy, đấy là trạng thái nhờ đó tâm và tâm sở ở trong tình trạng quân bình, chánh đáng, và đặt hết vào một đối tượng duy nhất, không phân tán hay xao lãng. Đặc tính của Định là không phân tán. Bản chất hay nhiệm vụ của nó là loại trừ phân tán. Tướng của nó là không tán loạn, nhân gần của nó là lạc, do câu “nhờ lạc, tâm vị ấy được định”9 .

Phật giáo Nguyên thủy định nghĩa thiền định hay thiền chỉmục đích chế ngự năm chướng ngại của định gọi là năm triền cái và làm cho tâm an trú, thuộc ba chi phần định trong Bát Thánh đạo tương ứng với ba mức độ định khác nhau:

a) Chánh tinh tấn: An trú nhờ cố gắng giữ nhất tâm trên đối tượng sơ tướng10 và thô tướng11. An trú này gọi là chuẩn bị định.

b) Chánh niệm: An trú nhờ duy trì nhất tâm trên đối tượng quang tướng12. An trú này gọi là cận hành định hay tịnh thuộc dục giới định.

c) Chánh định: An trú nhờ nhất tâm bất động trên đối tượng quang tướng. An trú này được gọi là an chỉ định hay định sắc giớiđịnh vô sắc giới.

Kinh A-ma-trú (bản kinh số 3, Ambaṭṭha sutta, thuộc Trường bộ) giới thiệu các vấn đề tương ứngGiới Định và Tuệ; theo đó Định sẽ bao gồm (a) Phòng hộ sáu giác quan, (b) Chánh niệm, (c) sự thỏa mãn, (d) sự giải phóng khỏi năm triền cái, (e) bốn tầng thiền.

Thành tựu bốn tầng thiền được Đức Phật gọi đó là chánh định: “Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh định? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh, có tầm có tứ. Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sinh, không tầm không tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả, niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Đây gọi là chánh định”.

Pháp bảo đàn kinh định nghĩa Tọa Thiền là : “Bên ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là tọa, bên trong thấy tự tánh chẳng động gọi là thiền. Ngoài lìa tướng tức Thiền, trong chẳng loạn tức Định, ngoại Thiền nội Định gọi là thiền định. Ngoài lìa tướng nghĩa là khi thấy tướng nhưng không dính mắc vào tướng, tức là khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần tâm không dính mắc, hay rong ruổi chạy theo tìm kiếm. Bên trong tự tánh chẳng động, tức nội tâm an trú, vắng bặt các tạp niệm, do vậy tâm chuyên nhất, đó là định”.

Ngài Khương Tăng Hội trong bài tựa kinh An ban thủ ý định nghĩa Thiền là loại trừ và đốt cháy. Loại trừ và đốt cháy ở đây là loại trừ những cấu uế trong tâm, những phiền não, tập khí và nội kết trong tâm. Thiền là làm cho tâm ngay thẳng lại, làm cho ý chuyên nhất lại. Tập hợp tất cả những điều lành. Dùng những điều lành ấy để loại trừ những uế ác còn dính mắc trong tâm. Uế ác đó là năm sự ngăn che, gọi là Ngũ triền cái, đó là Tham dục, Sân hận, Thùy miên, Trạo hốiNghi ngờ.

Như vậy, có thể nói định học là mộ t phạ m trù rộ ng lớ n trên con đườ ng thự c tậ p tâm linh trong Phậ t giá o. Thiề n đị nh đượ c xem là trá i tim củ a Phậ t giá o, vì nế u không có thự c tậ p thiề n đị nh thì sẽ không đạ t đượ c mụ c tiêu cuố i cù ng đó là trí tuệ vô lậ u giả i thoá t. Ngà y nay, khi Phậ t giá o phá t triể n rộ ng lớ n, cá c trườ ng phá i thiề n đượ c phá t triể n. Thiề n chỉ , thiề n quá n, thiề n Tứ niệ m xứ , thiề n quá n niệ m hơi thở và thiề n từ bi đượ c á p dụ ng thự c tậ p rộ ng rã i. Trong đó , thiề n chá nh niệ m đã trở thà nh mộ t dò ng thiề n thiế t yế u trong xu hướ ng thờ i hiệ n đạ i. Thiề n đị nh giú p giả i quyết nhiều vấ n đề cấ p thiế t như: giả m stress, buông thư, an trú và tị nh lạ c, giú p tá i cấ u trú c và thiết lập cơ chế tâm, mang lại an lạc giải thoát trong đời sống.

 

Ghi chú :
1. Kinh Đại Bát Niết-bàn; Trường bộ kinh; Hòa thượng Thích Minh Châu dịch.
2&3. Mahāthera Paravahera Vajirañāṇa; Buddhist Meditation in Theory and Practice; Colombo; MD. Gunasena & Co. Ltd., 1962.
4. T.W. Rhys Davids & W. Stede (ed.), Pali-English Dictionary; Munshhiram Manoharlal; New Delhi; 2001.
5. Henepola Gunaratana; A Critical Analysis of the Jhanas in Theravāda Buddhist Meditation; The American University; Washington; 1980.
6. Original author, Paravahera Vajirañāza Mahā Thera; new edition revised and edited by Allan R. Bomhard; Buddhist Meditation In Theory and Practice, A General Exposition According to the Pāli Canon of the Theravādin School; Charleston Buddhist Fellowship; 2010 (2554).
7. Harcharn Singh Sobti; Vipassanā The Buddhist way; EBL Delhi; 2003.
8. Peter N. Gregory; Traditions of Meditation in Chinese Buddhism; University of Hawaii Press; 1986.
9. Thích nữ Trí Hải (dịch) Thanh tịnh đạo luận; chùa Pháp Vân ấn hành.
10. Sơ tướng: là hiện vật được tạo ra hay có sẵn trong thiên nhiên được hành giả dùng làm đối tượng thiền định. Ví dụ như một hình tròn màu xanh (được tạo ra) hay ngọn lá xanh (thiên nhiên) mà hành giả dùng để tập chú với mục đích định tâm.
11. Thô tướng: sau khi tập chú tâm với tưởng đủ mạnh để sao chép sơ tướng thành hình ảnh tương tự bên trong gọi là thô tướng hay tợ tướng, bấy giờ hành giả tạm thời bỏ sơ tướng bên ngoài để tập chú vào thô tướng bên trong.
12. Quang tướng: nếu chú tâm trên thô tướng đúng mức tướng này sẽ phát ra ánh sáng nên được gọi là quang tướng. Quang tướng là sắc do tưởng sinh, vì vậy, thiền lấy sắc tưởng này làm đối tượng để đạt được an chỉ định được gọi là thiền sắc giới hay thiền hữu sắc.

Thích Trung Định
Văn Hóa Phật Giáo số 332 ngày 1-11-2019
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10534)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6101)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9368)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6426)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5983)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7510)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7323)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5218)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8107)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5932)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9644)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7421)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7438)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6232)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5324)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5872)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5678)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3976)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5720)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4096)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7533)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5727)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21933)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5651)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7104)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5041)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6447)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5826)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5018)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7064)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6056)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5581)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5886)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6024)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6850)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6441)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6089)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6504)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6200)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6392)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5616)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6917)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4571)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7796)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6052)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7304)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7737)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5508)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5156)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5688)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5543)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5534)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5027)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4289)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6052)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5641)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6300)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8533)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5249)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant