Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Từ Nền Tảng Bốn Đại Giáo Pháp Trong Kinh Du Hành Nghĩ Về Những Việc Cần Thực Hiện Trong Khi Phiên Dịch Kinh Điển.

16 Tháng Mười Hai 201908:14(Xem: 5835)
Từ Nền Tảng Bốn Đại Giáo Pháp Trong Kinh Du Hành Nghĩ Về Những Việc Cần Thực Hiện Trong Khi Phiên Dịch Kinh Điển.

Từ Nền Tảng Bốn Đại Giáo Pháp Trong Kinh Du Hành Nghĩ Về
Những Việc Cần Thực Hiện Trong Khi Phiên Dịch Kinh Điển.

 
Chúc Phú

hoa sen

Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)[1].

Chúc Phú.

Kể từ khi Đức Phật cho phép các tỳ-kheo được học tập kinh điển bằng ngôn ngữ của đất nước mình, thì đó cũng là lúc hình thành nên những truyền thống kinh điển của từng quốc gia khác nhau trên thế giới.

Ở đây, trong quá trình biến thiên của lịch sử, đã có những truyền thống Phật giáo bị lụi tàn nên cũng đồng thời kéo theo sự mai một về những nền tảng kinh điển quý báu của trường phái ấy. Không những vậy, do nhiều yếu tố tác động khác nhau, kể cả sự tác động có chủ ý của con người, khiến cho nhiều truyền thống kinh điển bị pha trộn nhiều yếu tố phi Phật giáo.

 Với trí tuệ vượt mọi khoảng không gian và cả thời gian, Đức Phật đã nhìn thấy những trăn trở, những khó khăn, những bất đồng, những va chạm… trong quá trình các chúng đệ tử giữ gìn, phiên dịchluận giải về những lời dạy của Ngài. Do vậy, Ngài đã có những lời dạy mang tính định hướng liên quan đển việc giữ gìn, chuyển dịch, truyền thụ kinh điển, thể hiện cụ thể qua Bốn giáo pháp lớn ( 四大教法) trong kinh Du Hành, thuộc Trường A-Hàm.

Kinh ghi:

“Bốn giáo pháp lớn là: Nếu có tỳ-kheo nào nói như vầy: ‘Này chư hiền! Tôi ở thôn kia, thành kia, nước kia, đích thân nghe từ Phật, đích thân thọ lãnh giáo pháp này’. Nghe như thế, chớ nên không tin, chớ nên bài bác, các thầy hãy y cứ vào Kinh để suy nghiệm chỗ đúng sai, y cứ vào Luật, y cứ vào Pháp mà cứu xét tường tận ngọn nguồn. Nếu nhận thấy lời ấy không đúng với Kinh, với Luật, với Pháp thì hãy nói: ‘Phật không dạy như thế, thầy đã nghe lầm rồi! Tại vì sao? Vì tôi đã y cứ vào Kinh, Luật, Pháp, nhận thấy điều thầy nói trái với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Chớ nên thọ trì, chớ dạy cho người và hãy từ bỏ điều đó’. Nếu xét thấy lời ấy đúng với Kinh, với Luật, với Pháp, thì hãy nói với họ: ‘Điều thầy vừa nói đúng với lời Phật dạy. Tại vì sao? Vì tôi căn cứ vào Kinh, vào Luật, vào Pháp, nhận thấytương ưng với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Các thầy nên thọ trì, giảng rộng cho người, cẩn thận chớ bỏ’. Đó là Giáo pháp lớn thứ nhất.

Lại nữa, có tỳ-kheo nói như vầy: ‘Tôi ở tại thôn kia, thành kia, nước kia, ở trong một đại chúng hòa hợp, toàn bậc trưởng thượng đa văn, đích thân nghe các ngài ấy dạy, đích thân lãnh thọ Pháp này, Luật này, Giáo này’. Nghe như thế, chớ nên không tin, chớ nên bài bác; hãy y cứ vào Kinh để suy nghiệm chỗ đúng sai, y cứ vào Luật, y cứ vào Pháp mà cứu xét tường tận ngọn nguồn. Nếu nhận thấy lời ấy không đúng với Kinh, với Luật, với Pháp thì hãy nói: ‘Phật không dạy như thế, ông đã nghe lầm rồi! Tại vì sao? Vì tôi đã y cứ vào Kinh, Luật, Pháp, nhận thấy điều ông nói trái với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Chớ nên thọ trì, chớ dạy cho người và hãy từ bỏ điều đó’. Nếu xét thấy lời ấy đúng với Kinh, với Luật, với Pháp, thì hãy nói với họ: ‘Điều ông vừa nói đúng với lời Phật dạy. Tại vì sao? Vì tôi căn cứ vào Kinh, vào Luật, vào Pháp, nhận thấytương ưng với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Các ông nên thọ trì, giảng rộng cho người, cẩn thận chớ bỏ’. Đây là Giáo pháp lớn thứ hai.

Lại có tỳ-kheo nói như vầy: ‘Tôi ở thôn kia, thành kia, nước kia, ở trong một hội chúng tỳ-kheo trì pháp, trì luật, trì luật nghi, đích thân nghe các vị ấy dạy, đích thân lãnh thọ Pháp này, Luật này, Giáo này’. Nghe như thế, chớ nên không tin, chớ nên bài bác; hãy nên y cứ vào Kinh để suy nghiệm chỗ đúng sai, y cứ vào Luật, y cứ vào Pháp mà cứu xét tường tận ngọn nguồn. Nếu nhận thấy lời ấy không đúng với Kinh, với Luật, với Pháp thì hãy nói: ‘Phật không dạy như thế, ông đã nghe lầm rồi! Tại vì sao? Vì tôi đã y cứ vào Kinh, Luật, Pháp, nhận thấy điều ông nói trái với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Chớ nên thọ trì, chớ dạy cho người và hãy từ bỏ điều đó’. Nếu xét thấy lời ấy đúng với Kinh, với Luật, với Pháp, thì hãy nói với họ: ‘Điều ông vừa nói đúng với lời Phật dạy. Tại vì sao? Vì tôi căn cứ vào Kinh, vào Luật, vào Pháp, nhận thấytương ưng với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Các ông nên thọ trì, giảng rộng cho người, cẩn thận chớ bỏ’. Đó là Giáo pháp lớn thứ ba.

[18a09] Lại có tỳ-kheo nói như vầy: “Tôi ở thôn kia, thành kia, nước kia, đích thân nghe từ một vị tỳ-kheo trì pháp, trì luật, trì luật nghi dạy, đích thân thọ lãnh Pháp này, Luật này, Giáo này’. Nghe như thế, chớ nên không tin, chớ nên bài bác; hãy nên y cứ vào Kinh để suy nghiệm chỗ đúng sai, y cứ vào Luật, y cứ vào Pháp mà cứu xét tường tận ngọn nguồn. Nếu nhận thấy lời ấy không đúng với Kinh, với Luật, với Pháp thì hãy nói: ‘Phật không dạy như thế, ông đã nghe lầm rồi! Tại vì sao? Vì tôi đã y cứ vào Kinh, Luật, Pháp; nhận thấy điều ông nói trái với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Chớ nên thọ trì, chớ dạy cho người và hãy từ bỏ điều đó’. Nếu xét thấy lời ấy đúng với Kinh, với Luật, với Pháp, thì hãy nói với họ: ‘Điều ông vừa nói đúng với lời Phật dạy. Tại vì sao? Vì tôi căn cứ vào Kinh, vào Luật, vào Pháp, nhận thấytương ưng với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Các ông nên thọ trì, giảng rộng cho người, cẩn thận chớ bỏ’. Đây là Giáo pháp lớn thứ tư”[2].

Từ những lời dạy cô động này của Đức Phật, chúng ta có thể khái quát thành những điểm cơ bản như sau:

Trước hết, Bốn đại giáo pháp này đề cập đến vai trò quan trọng của nguồn tư liệu. Nguồn tư liệu nguồn cội nhất là những lời dạy trực tiếp của chính Đức Phật; sau đó là các bậc trưởng thượng đa văn; thứ ba là hội chúng tỳ kheo trì pháp, trì luật; và thứ tư là một vị tỳ kheo trì pháp, trì luật. Theo quan điểm của khoa học nghiên cứu, nguồn tư liệu sơ cấp (primary sources) bao giờ cũng là nguồn thư tịch quan trọng hàng đầu. Thế nhưng ở đây, khi tiếp cận kinh điển ở bất kỳ nguồn nào, dù đó là vị tỳ-kheo không danh tiếng hay một bậc khả tín như chính Đức Phật, nhưng khoan vội tin ngay và cũng chớ nên vội vàng phản bác. Đây là thái độ cần có của một người thực hiện sứ mạng phiên dịch kinh điển. Vì lẽ, nếu như không giữ được tâm thế trầm tĩnh, kham nhẫn, khách quan này, thì người làm công tác phiên dịch kinh điển dễ dàng mất bình tĩnh, dễ khởi sân tâm và đôi khi có những ngôn từ chưa nhã ngữ.

Thứ hai, thái độ tham chiếu, đối khảo kinh điển là cơ sở cần thiếthết sức quan trọng để chứng thực lời Phật dạy. Đây là điều kiện tối cần vì chúng ta đã cách Phật quá xa. Từ thực tế cho thấy, ngay từ thời Đức Phật, tùy kheo khả năng chuyên biệt mà đã có những vị uyên thâm và sở đắc về kinh, luật và luận khác nhau. Không những vậy, trong quá trình phát triển, đã có những bộ phái Phật giáo lụi tàn, biến mất nên đã đồng thời kéo theo sự mai một truyền thống kinh điển của bộ phái đó. Đây là chưa kể đến sự tác động có chủ ý của con người, khiến những lời dạy của Đức Phật dù được lưu lại bằng văn bản, nhưng vẫn có khả năng đi quá xa và đi lạc Thánh ý. Chính vì vậy, nguồn tư liệu dùng để tham chiếu càng nhiều, càng tường tận, càng quy mô, thì tính chân thực của kinh điển càng được đảm bảo.

Thứ ba, khi đã xác tín rằng, đây là lời Phật dạy và kia chưa phải là lời Phật dạy thì cần có một thái độ ứng xử đúng mực theo lời dạy của Đức Phật. Nếu như sau khi đã tham chiếu mọi nguồn kinh điển khả tín, và phát hiện ra rằng, lời nói của vị pháp sư, hoặc nghĩa của bản kinh được dịch chưa đúng với lời Phật dạy, thì vị pháp sư hoặc người dịch kia phải thể hiện tinh thần cầu thị, không nên cố chấp. Yếu tính vô ngã cần phải được vận dụng trong trường hợp này. Phải hiểu rằng, pháp là của Phật, không phải của ta. Trong tất cả, cần phải trầm tư về lời dạy của Đức Phật trong kinh Pháp Cú: Tỳ-kheo chớ tự tin./ Khi lậu hoặc chưa diệt (Bhikkhu vissāsamāpādi, appatto āsavakkhayaṃ, Dhp.272). Từ trường hợp của ngài Đạo Sanh (355-434), khi phát hiện và tuyên bố về trường hợp Nhất-xiển-đề có thể thành Phật. Tuyên bố này đúng với lời dạy của Đức Phật, nhưng ngài Đạo Sanh đã bị số đông người xuất gia thời ấy tẩn xuất khỏi Tăng-đoàn[3]. Sự kiện đặc thù đó đã cho thấy rằng, chân lý chưa hẳn thuộc về số đông, nhất là số đông chưa thuần chánh pháp. Trường hợp này là một bi kịch liên quan đến lịch sử phiên kinh, mà chúng ta cần phải nhận ra để phòng tránh.

Thứ tư, ngôn ngữ là một thực thể sinh động và được vận hành theo những quy luật đặc thù của riêng chúng. Nhờ có ngôn ngữcon người có thể tự hiểu rõ chính mình, hiểu rõ xung quanh, hiểu rõ bản chất của cuộc đời cũng như cả thế giới. Thưc tế cho  thấy rằng, lời dạy của Đức Phật được truyền dạy cho đến ngày nay phần lớn được giữ gìn trên một phương diện của ngôn ngữ, là chữ viết. Việc am tườngthuần thục ngôn ngữ mẹ đẻ cũng như nhiều thể loại ngôn ngữ khác nhau, cách vận dụng linh hoạt của từng thể loại ngôn ngữ trong những giai đoạn lịch sử cụ thể, là những điều kiện quan trọng. Đó cũng là lưu ý của Đức Phật trong kinh Vô tránh phân biệt, thuộc Trung Bộ: Ở đây, này các Tỷ-kheo, trong nhiều quốc độ, người ta biết (những chữ) Pati... Patta... Vittha.. Sarava.. Dharopa.. Pona... Pisila. Như vậy, như họ biết trong các quốc độ ấy những chữ là như vậy, như vậy, có người lại làm như vậy, kiên trì chấp thủ, chấp trước và nói: "Chỉ như vậy là sự thật, ngoài ra là hư vọng". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là chấp trước địa phương ngữ, là đi quá xa ngôn ngữ thường dùng.[4]

Cuối cùng, quá trình tiếp cận, nghiên cứu, chuyển dịch lời dạy của Đức Phật sang bản ngữ là một sứ mạng quá đỗi gian khó và cũng rất cao quý, thiêng liêng. Theo quan kiến riêng của người viết thì công đức cũng từ đây và đọa đày cũng từ đấy. Do vậy, việc thường xuyên nuôi dưỡng và thắp sáng ý thức này, cũng là một trong những phương cách để tự mình kiện toàn những điều kiện cần thiết, cũng như giúp cho tự thân nếm trải pháp vị đề-hồ từ chánh pháp uyên nguyên.

Chúc Phú



[1] Culla Vagga, tập 2, chương Các tiểu sự, Việc chuyển đổi lời dạy của Đức Phật sang dạng có niêm luật, đoạn 180. Bản dịch tiếng Việt của Tỳ-kheo Indacanda. Xem thêm, 大正藏第 22 冊 No 1.428 四分律, 卷第五十二, 雜揵度之二. Nguyên văn: 聽隨國俗言音所解誦習佛經.

[2] Bản dịch của Ban hiệu chú Đại tạng kinh, thuộc Viện nghiên cứu Phật Học Việt Nam.

[3] 大正藏第 49 冊 No. 2035 佛祖統紀, 卷第二十六. Nguyên văn: 師被擯南還入虎丘山.

[4] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr. 575.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6090)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9352)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6408)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5976)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7496)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7311)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5199)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8077)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5924)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9610)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7389)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7413)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6217)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5316)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5856)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5656)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3964)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5698)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4081)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7516)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5714)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21898)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5596)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7051)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5013)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6438)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5809)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5010)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7049)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6043)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5568)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5876)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6000)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6815)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6434)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6078)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6469)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6156)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6353)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5597)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6896)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4563)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7778)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6014)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7269)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7698)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5494)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5143)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5652)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5510)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5518)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5016)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4260)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6038)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5631)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6291)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8526)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5233)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5802)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant